AOI đồng hành cùng doanh nghiệp và nông dân nỗ lực vì sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững

Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Hữu cơ Á châu (AOI) quy tụ những nhà khoa học và cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm nhiều năm tư vấn sản xuất hữu cơ và chứng nhận các tiêu chuẩn quốc tế theo yêu cầu

Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Hữu cơ Á châu (AOI) quy tụ những nhà khoa học và cán bộ kỹ thuật có kinh nghiệm nhiều năm tư vấn sản xuất hữu cơ và chứng nhận các tiêu chuẩn quốc tế theo yêu cầu

Viện AOI cung cấp dịch vụ đánh giá và chứng nhận hữu cơ Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS) ngang tầm các tiêu chuẩn quốc tế như EU, USDA, JAS và VN

Một trong những chương trình hợp tác giữa Công ty TNHH TAIYO NOUEN và Viện Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Hữu cơ Á Châu, chúng tôi đồng tổ chức Hội thảo tập huấn Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (JAS) về thực phẩm hữu cơ:

Trong khuôn khổ dự án Graisea 2.0, Viện AOI phối hợp với RECERD và Trung Tâm Khuyến Nông Tỉnh Kiên Giang tổ chức đợt tập huấn “Nâng cao nâng lực cho các HTX trong địa bàn dự án Graisea 2.0 ở tỉnh Kiên Giang”.

Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu đến các bạn đọc quyển cẩm nang “HƯỚNG DẪN SẢN XUẤT LÚA HỮU CƠ cho các bên liên quan trong mô hình liên kết chuỗi giá trị” của TS. Nguyễn Công Thành, một trong những người đi đầu rất tâm huyết trong lĩnh vực nông nghiệp đặc biệt là sản xuất lúa hữu cơ

𝐆𝐢𝐨̛̀ 𝐭𝐫𝐚́𝐢 đ𝐚̂́𝐭 𝟐𝟎𝟐𝟒: 𝐆𝐢𝐚̉𝐦 𝐝𝐚̂́𝐮 𝐜𝐡𝐚̂𝐧 𝐂𝐚𝐜𝐛𝐨𝐧 - 𝐇𝐮̛𝐨̛́𝐧𝐠 𝐭𝐨̛́𝐢 𝐍𝐞𝐭 𝐙𝐞𝐫𝐨
download
GIỜ TRÁI ĐẤT TRÊN THẾ GIỚI
      Vào 20h30 ngày 23/3/2024 theo giờ địa phương, Giờ Trái đất lần thứ 18 sẽ diễn ra trên toàn cầu. Chiến dịch kêu gọi các cá nhân, doanh nghiệp và cộng đồng toàn thế giới “Tắt đèn, dành trọn vẹn một giờ cho trái đất", làm một việc hữu ích cho hành tinh của chúng ta.

     Bắt nguồn từ sự kiện tắt đèn mang tính biểu tượng tại Sydney 2007, Giờ Trái Đất đã trở thành phong trào toàn cầu hàng năm về bảo vệ môi trường, nơi các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức và chính phủ trên toàn thế giới cùng lên tiếng về tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), mất tài nguyên thiên nhiên. Giữa lúc thế giới chứng kiến nhiều xáo trộn, Giờ Trái đất là một tín hiệu tích cực, một nguồn hy vọng và cảm hứng để kêu gọi sự cam kết mạnh mẽ hơn từ công chúng trên toàn cầu, đặc biệt đối với các cá nhân còn đang do dự và ngần ngại, cùng tham gia phục hồi trái đất.
  
     Bà Kirsten Schuijt - Tổng Giám đốc Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) - chia sẻ: “Chúng ta cần đoàn kết, phát huy sức mạnh của tập thể và cá nhân để nâng cao nhận thức về những vấn đề môi trường, hướng tới phục hồi đa dạng sinh học vào năm 2030. Giờ Trái đất không chỉ dừng lại ở việc tắt đèn 1 giờ mỗi năm mà là cơ hội để tất cả chúng ta cùng nhau hành động, cùng nhau bảo vệ hành tinh mà chúng ta đang sống”.
GIỜ TRÁI ĐẤT 2024 TẠI VIỆT NAM

     Biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất mà loài người đang phải đối mặt. Đối với Việt Nam, việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề đặc biệt quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Tiếp theo cam kết đưa phát thải ròng về không (Net Zero) tại COP26, chính phủ Việt Nam khẳng định “đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện” tại COP28 thông qua việc xây dựng và thực hiện các chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng hệ sinh thái năng lượng tái tạo; nghiêm túc theo đuổi cam kết quốc gia tự quyết định, chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và nhiều hoạt động khác nhằm giảm thiểu phát thải carbon.

     Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn hay kinh tế carbon thấp là mục tiêu không hề dễ dàng. Trong bối cảnh đó, việc giảm dấu chân carbon đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hướng tới Net Zero. Giảm dấu chân carbon, đồng nghĩa với giảm phát thải, là một trong những yếu tố tiên quyết để hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

     Giờ Trái đất 2024 tại Việt Nam, WWF cùng với Bộ Công thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường kêu gọi công chúng cùng “Giảm dấu chân carbon - Hướng tới Net Zero”. Trong đó, Giờ Trái đất kêu gọi các doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất, áp dụng các giải pháp tối ưu hoá hoạt động, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính. Bên cạnh các hoạt động trực tuyến trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội, nhiều sự kiện trực tiếp cũng được tổ chức nhằm nâng cao nhận thức và kêu gọi cộng đồng cùng hành động vì mục tiêu chung của Việt Nam.

     Bà Phạm Cẩm Nhung, Quản lý Chương trình Khí hậu và Năng lượng của WWF-Việt Nam, chia sẻ: “Đôi khi chúng ta quên mất rằng thiên nhiên ban tặng cho chúng ta rất nhiều điều thiết yếu trong cuộc sống, từ không khí chúng ta đang thở, thực phẩm, nước uống chúng ta dùng hàng ngày. Về cơ bản, chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Giờ Trái đất là cơ hội để chúng ta cùng nhìn lại và suy ngẫm. Bên cạnh hành động tắt đèn, bạn có thể làm nhiều điều thiết thực để bảo vệ ngôi nhà chung duy nhất của chúng ta. Hãy cùng chúng tôi giảm dấu chân carbon, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của đất nước”.

     Ngày 23 tháng 3 này, khi đồng hồ điểm 20h30, khắp nơi trên thế giới cùng tham gia vào thời khắc tắt đèn, chúng ta hãy tạm gác lại những vướng bận hàng ngày, dành một giờ cho Trái đất và làm những việc, dù là nhỏ nhất, có thể góp phần giảm dấu chân carbon. Bạn có thể đạp xe, lựa chọn mua các sản phẩm tiêu dùng thân thiện với môi trường, trồng thêm cây xanh, tham dự sự kiện Giờ Trái đất tại địa phương hay chỉ đơn giản là tắt các thiết bị điện không cần thiết trong vòng một giờ. Dù bạn là ai, và đang ở đâu, tất cả đều có thể tham gia vào sứ mệnh cao cả này vào ngày Giờ Trái đất.
 
poster 1 1 1 1 771831
© WWF-Việt NamBộ nhận diện thương hiệu Giờ Trái đất 2024

      NGÂN HÀNG THỜI GIAN

     Trong năm 2024, WWF-Việt Nam chính thức giới thiệu nền tảng Ngân hàng thời gian (Hour Bank) nhằm kêu gọi công chúng tại Việt Nam cùng dành thời gian thực hiện những hành động thiết thực vì Trái đất. Nền tảng Hour Bank đã được triển khai từ Giờ Trái đất năm 2023 trên thế giới, ghi nhận 410.000 giờ hành động vì Trái đất từ công chúng toàn cầu.

     Hour Bank là nền tảng cho phép người dùng khám phá hoạt động phù hợp với bản thân trên 6 lĩnh vực: Thực phẩm, Thể thao và sức khỏe, Giải trí, Nghệ thuật và sáng tạo, Bền vững, Thiên nhiên. Mỗi cá nhân có thể đồng thời thực hiện nhiều hoạt động hữu ích cho Trái đất, lan tỏa thông điệp tích cực tới cộng đồng từ các sở thích và lối sống hàng ngày.

     Với mỗi lượt truy cập và đăng ký/hoàn thành một hoạt động có trong Hour Bank, hệ thống sẽ ghi nhận thời gian mỗi người đóng góp cho Trái đất. Tổng số thời gian mỗi quốc gia đăng ký trong Hour Bank, và bảng xếp hạng toàn cầu sẽ được công bố trên trang web Giờ Trái đất Quốc tế sau chiến dịch.

     Năm 2024, Giờ Trái đất kỳ vọng có thể nhận được ít nhất 10.000 giờ ủng hộ Trái đất từ công chúng Việt Nam. Hãy truy cập trang Ngân hàng thời gian để đăng ký hoạt động và thời gian bạn muốn dành cho cho Trái đất.Posted on 07 March 2024Giờ Trái đất 2024 tại Việt Nam, WWF cùng với Bộ Công thương và Bộ Tài nguyên & Môi trường kêu gọi công chúng cùng “Giảm dấu chân carbon - Hướng tới Net Zero”.
Sưu tầm: https://vietnam.panda.org/?384015/GIO-TRAI-DAT-2024-GIAM-DAU-CHAN-CARBON-HUONG-TOI-NET-ZERO
Nhóm Admin Viện AOI
 

 

     Một bài báo đã xuất bản của ACIAR (Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc) đã mô tả một phương pháp kiểm soát loài gặm nhấm trên cây lúa được trồng ở vùng đất thấp mà không sử dụng hóa chất. Bài báo này là một ghi chú nghiên cứu mô tả về hệ thống rào cản bẫy cộng đồng (CTBS). Những hệ thống này là những chiếc lồng lớn (có diện tích từ 20-50 m2) làm bằng nhựa, cọc tre hoặc gỗ, dây hoặc dây điện, ghim và bẫy chuột (xem Hình 1). Lồng được xây dựng có mục đích ở cánh đồng canh tác lúa và một loại cây trồng làm bẫy (thường là giống lúa chín sớm) được trồng trong lồng. Lồng được bao quanh bởi một con hào và các lối vào bằng gò, cụ thể dẫn đến bẫy. Cây thu hút chuột từ các cánh đồng xung quanh cách xa tới 200 m. Một CTBS duy nhất có thể bảo vệ diện tích từ 10-15 ha.

Figure 1: View of large rat trap cage (bottom) and diagram showing placement of traps around rice trap crop (top). Figures from ACIAR Research Note.

Hình 1: Hình ảnh lồng bẫy chuột lớn (phía dưới) và sơ đồ bố trí các bẫy xung quanh bẫy lúa (phía trên). Số liệu từ Ghi chú nghiên cứu của ACIAR.

 

      Một trong những điều thú vị nhất của ghi chú nghiên cứu ACIAR là thảo luận về  sinh sản của loài gặm nhấm và mối quan hệ của nó với sự phát triển của cây lúa. Đây là một đoạn trích từ ấn phẩm: “Việc sinh sản ở chuột đồng [Rattus argentiventer và Rattus lossa] dường như được kích hoạt bởi sự trưởng thành của chính cây lúa, với con cái lần đầu tiên bước vào giai đoạn động dục 1-2 tuần trước khi đẻ nhánh tối đa. Sau thời gian mang thai ngắn ngủi 3 tuần, lứa đẻ lên tới 18 con (trung bình 1112 con) được sinh ra. Chó con phát triển nhanh chóng và sẵn sàng sinh sản khi được 6 tuần tuổi. Con cái trưởng thành có thể mang thai lần nữa trong vòng vài ngày sau khi sinh con và do đó có thể sinh ba lứa trong giai đoạn sinh sản của vụ lúa - tổng cộng 30-40 con chuột con cho mỗi con cái ban đầu vào thời điểm thu hoạch.

 

      “Số mùa sinh sản mỗi năm cũng liên quan đến số chu kỳ trồng trọt. Một vụ lúa mỗi năm dẫn đến một mùa chuột sinh sản, hai vụ lúa dẫn đến hai mùa chuột sinh sản, v.v. (Hình 2).

Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thuận giữa mùa vụ canh tác lúa và chu kí sinh sản ở chuột

 

     “…Khi thu hoạch cách nhau hơn 1-2 tuần trên cùng một khu vực canh tác, đàn chuột sẽ di chuyển từ cánh đồng này sang cánh đồng khác, gây thiệt hại ngày càng nghiêm trọng cho những cánh đồng thu hoạch sau. Điều quan trọng hơn nữa là những con chuột được sinh ra vào đầu mùa thu hoạch sẽ đủ lớn để bắt đầu sinh sản trước khi thu hoạch xong. Điều này có thể tạo ra sự bùng nổ đột ngột về số lượng chuột. Thay vì một con cái sinh ra 30-40 con non, con cái và con của nó sẽ sinh ra 100-120 con con.”

 

      Về mặt thực tế, điều này có nghĩa là nếu một con chuột cái chết trước hoặc trong mùa sinh sản trước khi nó sinh sản lứa đầu tiên (ở giai đoạn lúa sữa) tương đương với việc giết 30-40 con chuột ngay trước khi thu hoạch. Ngoài ra, các cánh đồng ở cùng một khu vực canh tác nên được thu hoạch cách nhau hai tuần để tránh tình trạng chuột di chuyển từ cánh đồng này sang cánh đồng khác để kiếm thức ăn. Thời gian bỏ hoang kéo dài thường dẫn đến sự suy giảm nhanh chóng số lượng chuột ở địa phương.

 

      CTBS thành công nhất khi nó được triển khai trong toàn thể cộng đồng thay vì chỉ bởi một cá nhân. Điều này là do chuột có thể di chuyển rất xa để tìm kiếm thức ăn và do đó sẽ phá hoại cây trồng từ khu vực không được bảo vệ.

 

     CTBS sẽ tiết kiệm chi phí nhất nếu thiệt hại về mùa màng do loài gặm nhấm dự kiến ​​là 10% hoặc cao hơn, nếu lồng được làm và bảo trì tốt và nếu nó được cả cộng đồng áp dụng. Các thí nghiệm được thực hiện ở Indonesia và Việt Nam đã cho thấy sản lượng lúa tăng từ 0,3 đến 1 tấn/ha trong khu vực cách lồng 200m theo mọi hướng. Ở hai nước này, nguyên vật liệu cho mỗi đơn vị CTBS có giá khoảng 25-50 USD. Vật liệu thường có thể được tái sử dụng trong 2 đến 4 mùa.

 

     CTBS sẽ tiết kiệm chi phí nhất nếu thiệt hại về mùa màng do loài gặm nhấm dự kiến ​​là 10% hoặc cao hơn, nếu lồng được làm và bảo trì tốt và nếu nó được cả cộng đồng áp dụng. Các thí nghiệm được thực hiện ở Indonesia và Việt Nam đã cho thấy sản lượng lúa tăng từ 0,3 đến 1 tấn/ha trong khu vực cách lồng 200m theo mọi hướng. Ở hai nước này, nguyên vật liệu cho mỗi đơn vị CTBS có giá khoảng 25-50 USD. Vật liệu thường có thể được tái sử dụng trong 2 đến 4 mùa.

 

     Một số ý tưởng khác (ngoài CTBS) đã được đưa ra để kiểm soát loài gặm nhấm trên ruộng lúa. Ví dụ, bờ kè phải thấp và rộng dưới 30cm để chuột khó đào hang. Cần phát hiện hang chuột và tiêu hủy khi lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh. Loài gặm nhấm phải bị bẫy trong vòng hai tuần kể từ khi trồng cây.

 

Tài liệu này có sẵn trên web tại: http://aciar.gov.au/files/node/2212/rn26.pdf

Trích dẫn tài liệu:

Berkelaar, D. 2006. A Non-chemical Method of Rat Control for Rice Fields. ECHO Development Notes no. 93

Bản dịch: Nhóm Admin Viện AOI

 

 

 

 

      Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có báo cáo gửi Thủ tướng về việc đã ký các văn bản chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới. Số tiền thu về đạt gần 1.250 tỷ đồng.
 
      Trong báo cáo về tình hình thực hiện Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) vùng Bắc Trung Bộ gửi Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN-PTNT nêu rõ, ERPA được ký vào ngày 22/10/2020 giữa cơ quan này và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) với tư cách là Bên được ủy thác của Quỹ Đối tác Các-bon Lâm nghiệp (FCPF).
 
     ERPA nhằm chuyển nhượng lượng giảm phát thải (GPT) 10,3 triệu tấn carbon dioxide (CO2) ở vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024 cho FCPF thông qua WB, với đơn giá 5 USD/tấn CO2 tương đương 51,5 triệu USD.
 
     Khoảng 95% kết quả chuyển nhượng sẽ được chuyển giao lại cho Việt Nam để đóng góp vào cam kết của Quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính nhằm đạt mục tiêu của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu được thông qua tại Hội nghị lần thứ 21 (COP21).
 
     Ngoài ra, WB có quyền mua bổ sung tối đa 5 triệu tấn CO2 từ Báo cáo kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024 với đơn giá 5 USD/tấn CO2 theo cơ chế ERPA đã ký. Kết quả GPT được xác định chung cho cả vùng Bắc Trung Bộ.
lam nghiep 1400
Bộ NN-PTNT đã chuyển giao cho Ngân hàng Thế giới 10,3 triệu tấn CO2 (Ảnh minh hoạ)
 
     Thời điểm tính kết quả giảm phát thải từ ngày 1/1/2018 đến 31/12/2024. WB sẽ thực hiện chi trả dựa trên kết quả qua 3 kỳ báo cáo của Bộ NN-PTNT.
Ngày 11/12, Bộ NN-PTNT đã ký các văn bản chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới.
 
     Bộ NN-PTNT cho biết, đầu tháng 8 vừa quan, WB đã thanh toán tiền ERPA đợt 1 là 41.200.000 USD (tương đương 997,040 tỷ đồng), tương ứng với 80% kết quả giảm phát thải theo ERPA đã ký.
 
     Số tiền còn lại 10.300.000 USD tương đương 249,26 tỷ đồng, Bộ sẽ phối hợp với WB thực hiện các thủ tục thanh toán sau khi hoàn thành việc chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2.
 
     Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam là cơ quan đầu mối tiếp nhận, quản lý, sử dụng nguồn tiền từ ERPA và thực hiện điều phối cho Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
 
     Nguồn tiền này sẽ chi trả cho các chủ rừng, UBND cấp xã và tổ chức… được giao trách nhiệm quản lý rừng tự nhiên; chi cho các đối tượng khác có hoạt động liên quan đến GPT khí nhà kính để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng, góp phần giảm mất rừng, suy thoái rừng và nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người dân làm nghề rừng.
 
     Bộ NN-PTNT cũng thông tin, WB đã xác nhận kết quả giảm phát thải toàn vùng Bắc Trung Bộ kỳ 1 (1/1/2018-31/12/2019) đạt 16,21 triệu tấn CO2 (tương đương 16,21 triệu tín chỉ). Trong đó, lượng chuyển nhượng theo ERPA đã ký là 10,3 triệu tấn CO2.
 
     Còn lại 5,91 triệu tấn CO2, WB muốn mua bổ sung 1 triệu tấn CO2. Còn 4,91 triệu tấn CO2, Bộ này sẽ xây dựng phương án trao đổi, chuyển nhượng, thương mại để tạo nguồn lực bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng tại vùng Bắc Trung Bộ và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
 
     Bộ NN-PTNT đề xuất được tiếp tục xây dựng báo cáo kết quả giảm phát thải kỳ 2 (1/1/2020-31/12/2022) và kỳ 3 (1/1/2023-31/12/2024) gửi WB thẩm định. Trường hợp có lượng GPT bổ sung, Bộ sẽ tìm kiếm đối tác đàm phán, đề xuất trao đổi, chuyển nhượng.
                                                                                                                                                                                 
                                                                                                                                                                         Theo Tâm Thu (27/12/2023)
 

 

ĐÁNH GIÁ THUẬN LỢI-CƠ HỘI VÀ KHÓ KHĂN-THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HƯU CƠ HIỆN NAY

Viện NC&PT Nông nghiệp hữu cơ Á Châu (AOI)

I. Thuận lợi, và cơ hội

1. Chính sách thúc đẩy phát triển NNHC

Ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang là xu hướng được nhà nước quan tâm và khuyến khích, Chính phủ đã ra ban hành nhiều chương trình/Nghị Định/Quyết Đinh…trong đó (i) Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg ngày 1/2012 của Thủ tướng chính phủ về chính  sách  hỗ  trợ cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ về việc áp dụng các thực hành nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản bao gồm hữu cơ; (ii) Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 về nông nghiệp hữu cơ; (iii) Quyết định 3883/QĐ-BKHCN ngày 29.12.2017 công bố 03 Tiêu chuẩn: TCVN 11041-1:2017: Yêu cầu chung đối với sản xuất, chế biến, ghi nhãn sản phẩm NNHC, TCVN 11041-2:2017 : Trồng trọt hữu cơ và TCVN 11041-3:2017: Chăn nuôi hữu cơ; (iv) Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuát và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; (v) Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 của Thủ Tướng Chính Phủ về việc phê duyệt đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030...

Hiện nay, trong chiến lược phát triển NN của Việt Nam, đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng thu nhập cho người sản xuất là ưu tiên hàng đầu. Trong đó việc giảm diện tích canh tác lúa, giảm sản lượng xuất khẩu gạo giá rẻ để canh tác các giống chất lượng cao như ST24, ST25, Hạt ngọc trời...được quốc tế đánh giá và được xếp thứ hạng cao trên thế giới, vì thế gạo hữu cơ hiện nay đang là chiến lược xuất khẩu của nhiều tỉnh phía ĐBSCL và như vậy canh tác lúa hữu cơ có triển vọng rất lớn. Do đó, một số địa phương đang rất quan tâm để thực hiện một số chính sách hỗ trợ từ chính phủ về việc phát triển các sản phẩm chủ lực của địa phương theo canh tác NNHC như Kiên Giang, An Giang, Cà Mau, Vĩnh Long, Sóc Trăng...

2. Cơ hội thị trường NNHC trên thế giới và tronga nước

Dữ liệu mới nhất về canh tác hữu cơ trên toàn thế giới được trình bày bởi Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Hữu cơ (FiBL) và IFOAM – Organics International tại BIOFACH, hội chợ thương mại hàng đầu thế giới về thực phẩm hữu cơ.

Năm 2021, doanh số bán lẻ hữu cơ tăng 4 tỷ euro và đạt gần 125 tỷ euro. Đất nông nghiệp hữu cơ đã tăng lên tổng cộng 76,4 triệu ha trên toàn cầu.

Thị trường nông nghiệp hữu cơ toàn cầu sẽ tăng từ 169,04 tỷ USD vào năm 2022 lên 187,84 tỷ USD vào năm 2023 với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 11,1%. (Theo www.globenewswire.com/en/news-release/2023) .

Cơ hội phát triển NNHC trong nước. Theo Bộ NN&PTNT, tính đến nay, diện tích canh tác hữu cơ tại Việt Nam tăng từ 53.350 ha năm 2016 lên khoảng 237.693 ha năm 2019. Cả nước có 46/63 tỉnh thành đang thực hiện và có phong trào sản xuất hữu cơ. Số nông dân tham gia sản xuất hữu cơ là 17.168 người.

Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp; tham gia xuất khẩu là 60 doanh nghiệp với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia... là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.

3. Tiềm năng vùng đất nông nghiệp hữu cơ

Nước ta có nhiều vùng đất thuận lợi cho canh tác hữu cơ như các vùng đồi núi xa ở Tây Bắc, Tây Nguyên... bà con nông dân và người dân tộc canh tác thiên về tự nhiên ít hoạc không ùng hóa chất nên có khả năng chuyển đổi sang canh tác hữu cơ.  Ở ĐBSCL, có vùng lúa-tôm trên 200 ngàn ha của nhiển tỉnh ven biển có hệ thống canh tác một vụ lúa và một vụ tôm, có điều kiện tương hỗ giũa cây trồng và vật nuôi rất có khả năng chuyển đổi sang canh tác hữu cơ có chứng nhận. Ở các vùng chuyên canh lúa như An Giang, Kiên Giang... có diện tích sản xuất lúa vào loại lớn nhất nước, trong đó những vùng tập trung diện tích lớn như Tri Tôn, Thoại Sơn, Hòn Đât, Kien Luong....nếu nông dân được tổ chức, đầu tư có sự tham gia liên kết từ sản xuất (với quy trình riêng cho vùng lúa thâm canh), đánh giá chứng nhận đến tiêu thụ sản phẩm, có khả năng sản xuất lúa hữu cơ áp dụng công nghệ cao, đạt chứng nhận quốc tế cho sản xuất và tiêu thụ trong nước nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh tế cho các bên tham gia, đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng, bảo vệ môi trường bền vững và xây dựng nông thôn mơi.

4. Nguồn lực:

Hiện nay các tỉnh có nhiều doanh nghiệp đi tiên phong trong sản xuất nông nghiệp  liên kết theo các tiêu chuẩn VietGAP, SRP, an toàn dư lượng, và theo hướng hữu cơ là những tiêu chuẩn an toàn làm cơ sở đạt tiêu chuẩn hữu cơ.

Hình 1. Chuyến khảo sát thực địa của Viện AOI và HTX Vọng Đông

Nông dân một số vùng sản xuất lúa ở các HTX tham gia các dự án trong nước và quốc ế, các tổ chức NGO như Oxfam, GIZ, Rhikolto, WWF... cũng đã được tập huấn làm quen với qui trình sản xuất hữu cơ hoặc chuyển đổi canh tác hữu cơ. Đây là thuận lợi cho phát triển NNHC.  

5. Đầu vào:

Canh tác nông nghiệp của Việt Nam cũng có một số thuận lợi nhất định trong đó nông dân có nhiều kinh nghiệm trong việc tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp như tro trấu, rơm rạ, các phế phẩm cây trồng vật nuôi, phù sa ao hồ sông suối, nguồn than bùn...để sản xuất các phân bón hữu cơ. Việt Nam còn có nhiều tài nguyên khoáng chất đủ để cung cấp cho cây trồng. Với sự phát triển các kỹ thuật hiện đại trong công nghệ sinh học, Việt Nam cũng đã phát triển các loại phân bón hữu cơ từ các loại nấm Trichoderma phân hủy rơm rạ, các chế phẩm vi sinh trong phòng trừ sâu bệnh như Metarhizium, Beauveria, Nomurea...các chất dinh dưỡng từ Chitosan...Nguồn vật liệu hữu cơ nhập khẩu từ các nước Bắc Mỹ và Châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ... hiện tại cũng rất đa dạng, phong phú từ phân bón gốc, bón lá đến các sản phẩm bảo vệ thực vật như phân gà Ý, đạm cá Mỹ, acid humic Canada, Mỹ, thuốc sinh học, vi khuẩn ... trừ côn trùng từ Mỹ, Châu Âu...tất cả đều có chứng nhận nguồn gốc hữu cơ của OMRI.

6. Sự đầu tư có trách nhiệm và nắm bắt cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp tiên phong:

Các doanh nghiệp kinh doanh nắm bắt cơ hội nông nghiệp hữu cơ theo xu hướng thị trường và kinh doanh có trách nhiệm vơi môi trường và cộng đồng đi tiên phong trong chiến lược kih doanh , dám nghĩ dám làm, vượt lên thử thách, tin tưởng noog dân cùng nhau tìm giải pháp phù hợp tránh rủi ro sản xuất inh doanh và mạnh dạn đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu lâu dài sản xuất sản phẩm NN hữu cơ. Các doanh nghiệp này là yếu tố rất quan trọng trong phát trển NNHC.  

Hình 2. Viện AOI liên kết với các doanh nghiệp xây dựng thị trường đầu ra cho sản phẩm hữu cơ

II. Khó khăn, thách thức:

1. Thay đổi nhận thức của xã hội và tập quán canh tác của nông dân

Điểm yếu và thách thức lớn nhất là khó thay đổi nhận thức của xã hội và thay đổi tập quán canh tác của nông dân. Vấn đề này cần phải đầu tư lâu dài để tuyên truyền, giáo dục làm thay đổi nhận thức và tập quán tiêu dùng của xã hội và thói quen canh tác hóa học của nông dân.

Do nhiều yếu tố mà NNHC vẫn chưa được hiểu đúng ý nghĩa, chưa nhất quán, các thắc mắc của người sản xuất vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng về vật liệu thay thế; việc giải quyết năng suất cây trồng vật nuôi không bị sụt giảm mạnh trong giai đoạn chuyển đổi. Vẫn còn nhầm lẩn giữa sản xuất theo hướng hữu cơ và sản xuất hoàn toàn bằng đầu vào hữu cơ.

Hình 3. Viện AOI luôn đồng hành cùng bà con nông dân trong quá trình sản xuất hữu cơ

Vật liệu đầu vào cho sản xuất hữu cơ cũng đang được hiểu chưa đúng thực chất, còn nhầm lẫn giửa phân bón hoàn toàn bằng vật liệu hữu cơ và phân bón có hàm lượng hữu cơ cao hoặc phân bón hữu cơ nhưng đã bị nhiễm bẩn.

Vấn đề thay đổi nhận thức nhằm thay đổi tập quán canh tác của người nông dân cũng tương tự. Qua một quá trình lịch sử lâu dài người nông dân quen với sản xuất thiên về áp dụng nhiều phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa học nay chuyển đổi sang sản xuất bằng các đầu vào sinh học, hữu cơ là một vấn đề không phải dễ dàng. Do nông dân thiếu lòng tin hoặc chưa am hiểu, hoặc do hiệu quả của các đầu vào này còn thấp…

Đồng thời khó khăn còn nằm ở chỗ có trường hợp nông dân thiếu trung thực, họ không tuân thủ quy trình hoặc tự ý áp dụng các đầu vào hóa học bị cấm trong sản xuất hữu cơ sẽ dẫn đến thất bại của mô hình, làm ảnh hưởng cho toàn bộ dự án và gây thiêt hại cho doanh nghiệp đầu tư.

2. Quản lý cỏ dại trong sản xuất, nhất là đối với vùng lúa chuyên 2-3 vụ lúa/năm:

         Do sản xuất hữu cơ hoàn toàn sạch, không cho phép sử dụng thuốc trừ cỏ hóa học. Trong khi thuốc trừ cỏ sinh học chưa phổ biến, nông dân đã quen dùng thuốc trừ cỏ hóa học để phòng trừ, có khi 2-3 lần vụ ở vùng chuyên lúa. Đối với vùng lúa trong hệ thống lúa-tôm việc kiểm soát cỏ dại tương đối tốt hơn do nông dân canh tác tôm sau vụ lúa, dùng nước ngăn chận cỏ dại phát triển trong vụ lúa và do lợi ích nuôi tôm, nông dân không dùng thuốc diệt cỏ, là ưu thế của vùng này trong sản xuất hữu cơ (Thanh, N.C. et al, 2019).

3. Chi phí đánh giá cao:

Một thách thức nữa là các sản phẩm hữu cơ đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu vẫn dựa vào các tổ chức quốc tế như CU (Control Union). Đồng thời chưa có nhiều tổ chức chứng nhận quốc tế hoạt động trong nước, nên giá thành sản phẩm cao khó cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhận thức của cộng đồng về giá trị sản phẩm nông nghiệp hữu cơ vẫn còn thấp là một khó khăn và thách thức.

          IFOAM cần thống nhất các tiêu chuẩn chung cho NNHC hữu cơ có thể áp dụng toàn cầu, hiện còn cá biệt vùng và quốc gia về tiêu chuẩn và đầu vào sản xuất chưa thống nhất, thậm chí thiếu khoa học và thuyết phục. Cần có sự cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực chứng nhận NNHC. Các tổ chức chứng nhận cần linh hoạt và giảm các phí không phù hợp và các rào cản kỹ thuật thiếu tính khoa học và bản chất hữu cơ. Có thể linh hoạt cho từng vùng chuyển đổi và giai đoạn nhất định để khuyến khích NNHC phát triển.

4. Biến đổi khí hậu, thời tiết bất thường và dịch bệnh lan tràn:

Biến đổi khí hậu (BĐKH) trong đó nóng, nhiệt cao, hạn, mặn bất thường xẩy ra gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất ở ĐBSCL như các năm 2015-2016; gần đây 2019-2020 làm cho cả lúa và tôm bị ảnh hưởng nặng nề. Vùng lúa-tôm cần có biện pháp canh tác thích nghi hơn nữa với BĐKH. Về dich bệnh không chỉ cho cây trồng mà cho con người như dịch bệnh Covid 19 từ cuối năm 2019 đến nay vẫn đang còn tiếp tục: Những tác động này làm cho sản xuất và thị trường không ổn định, nhất là thị trường xuất khẩu gạo nói chung và lúa gạo hữu cơ nói riêng.

5. Giá thành sản xuất:

Thời gian qua cơ hội để phát triển nền nông nghiệp hữu cơ là rất cao, nhiều người đã quan tâm đến các sản phẩm hữu cơ và thị trường NNHC đang có vị trí trong nội địa và quốc tế, tuy nhiên trong thực tế sản phẩm hữu cơ chưa đáp ứng nhu cầu thị trường vì giá cao hơn nhiều so với sản phẩm thông thường, việc phát triển thị trường sản phẩm hữu cơ ở địa phương còn hạn chế, chỉ tập trung vào 2 thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Việc không sử dụng các hóa chất kích thích tăng trưởng và phân bón vô cơ nên năng suất thấp, các sản phẩm hữu cơ có đầu vào còn nhiều hạn chế, giá cả chưa phù hợp và nhất là trình độ canh tác của nông dân trong sản xuất hữu cơ chưa cao do còn mới nên việc áp dụng quy trình thực hành NNHC chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất cây trồng.

     Giữa Doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm HC và cơ sở sản xuất vẫn chưa bên nào chịu bỏ phí đầu tư cho giai đoạn chuyển đổi – chi phí cao nhưng giá bán sản phẩm chưa cao do chưa đạt tiêu chuẩn hữu cơ.

6. Vấn đề thiếu lòng tin lẫn nhau giữa doanh nghiệp và HTX/ND:

Là một vấn đề quan ngại nhất là trong sản xuất NNHC. NNHC càng yêu cầu sự trung thực của người sản xuất và chữ tín của nhà đầu tư. Nguyên nhân thiếu sự tin tưởng lẫn nhau là do trong xã hội đã có nhiều trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro về thị trường “bỏ của chạy lấy người” không giữ chữ tín. Còn phía người nông dân thì có nhiều trưòng hợp “giá lúa lên – thì mất mùa; giá lúa sụt – thì trúng mùa”, phá vỡ hợp đồng. Hoặc vi phạm quy trình phun thuốc cấm, làm cho sản phẩm nhiễm hóa chất, không đạt tiêu chuẩn đăng ký gây thiệt hại cho doanh nghiêp. Vấn đề này hết sức chú ý và không nên xẩy ra trong thời gian thực hiện dự án này.

7. Tiêu thụ sản phẩm hữu cơ:

Cuối cùng và là nhân tố quan trọng để phát triển NNHC thành công là liên kết tiêu thụ sản phẩm hữu cơ (SPHC). Hiện nay tiêu thụ, nhất là thị trường nội địa chưa mạnh do giá thành SPHC quá cao, do nguyên nhân phát triển SPHC vướng một số khó khăn ban đầu như: (i) Chưa thực hiện được trên quy mô lớn; (ii) Việc chọn lựa mô hình đáp ứng yêu cầu sản xuất NNHC còn khó khăn do phải có thời gian công sức cải tạo chuyển đổi từ sản xuất thông thường (sử dụng nhiều phân hóa học và thuốc BVTV...); (iii) Năng suất cây trồng thấp hơn trong những năm đầu chuyển đổi; (iv) chi phí công lao động thường nhiều hơn so với sản xuất thông thường nên giá đầu tư cao hơn; (v) Chi phí cho chứng nhận mô hình hữu cơ nên giá thành sản phẩm cao...Vì vậy, trước mắt, để sản phẩm hữu cơ đạt hiệu quả kinh tế cao so với sản xuất thông thường người sản xuất cần có sự hỗ trợ về nhiều mặt của các tổ chức Nhà nước địa phương, tổ chức Khoa học và các Doanh nghiệp cung ứng và tiêu thụ nhằm mục đích ổn định năng suất và chất lượng cây trồng vật nuôi, đáp ứng các tiêu chuẩn cho sản phẩm hữu cơ ... để giảm giá thành sản xuất tăng lợi nhuận cho nông dân.

Tóm lại về điểm yếu và thách thức còn nhiều và chính những thách thức này dẫn đến còn nhiều rủi ro, làm cho doanh nghiệp và các bên trong chuỗi giá trị e ngại trong đầu tư sản xuất hữu cơ.

Từ những thách thức và khó khăn trên, để đẩy mạnh ngành NNHC với mục tiêu nâng cao chất lượng nông sản và an toàn vệ sinh cho con người. Các địa phương cần thực hiện các chính sách hỗ trợ từ chính phủ về vốn sản xuất, ưu đãi các tổ chức tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm hữu cơ. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn sản xuất, chế biến và chứng nhận chất lượng, thanh tra giám sát các hoạt động liên quan đến sản phẩm hữu cơ. Cơ quan nghiên cứu và phát triển NNHC cần hoàn thiện quy trình canh tác đảm bảo ổn định và hiệu quả năng suất, đầu ra. Đẩy mạnh liên kết "4 nhà"”phát triển NNHC. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường và quảng bá sản phẩm.

Nhóm Admid Viện AOI tổng hợp

RUỒI LÍNH ĐEN - MỘT GIẢI PHÁP TỰ CHỦ PHÂN BÓN CHO NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

     Hiện nay có nhiều trang trại nuôi trùn quế để tự chủ nguồn phân bón cho trang trại của mình. Ngoài trùn quế, ruồi lính đen cũng là một giải pháp có thể giúp các trang trại chủ động sản xuất được phân bón cho mình.

     Trong vòng đời của ruồi lính đen, ấu trùng (còn gọi là sâu canxi) sẽ giúp làm nhiệm vụ xử lý rác thải hữu cơ và tạo ra nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi và phân cho cây trồng.

     Sau 1-3 ngày một tấn rác tươi sau khi xử lý tạo ra được 250-300 kg phân hữu cơ và 50-70 kg sâu canxi tươi. Sâu canxi còn là nguồn thức ăn hoàn hảo cho thú nuôi với hàm lượng protein và canxi tự nhiên cao.

     Vòng đời phát triển của ruồi lính đen từ lúc sinh ra đến khi chết đi trong khoảng 40 – 45 ngày qua các giai đoạn: 

     – Giai đoạn trứng: Trứng ruồi lính đen rất nhỏ, khi được đẻ ra trứng ấp 4 ngày nở thành ấu trùng.

     – Giai đoạn ấu trùng: Ấu trùng (sâu canxi) của ruồi lính đen là loại phàm ăn trong thế giới tự nhiên. Chỉ với 1m2 mỗi ngày ấu trùng có thể ăn tới 40 kg phân lợn tươi và cứ 100 kg phân có thể sản xuất ra 18 kg ấu trùng. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong vòng đời để xử lý rác thải hữu cơ và tạo ra nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi

     – Giai đoạn phát triển thành tiền nhộng: sau khoảng 14 ngày sâu canxi nó sẽ từ màu trắng chuyển thành màu nâu đen gọi là tiền nhộng, trong giai đoạn này vỏ vẫn mềm, vẫn di chuyển được, bắt đầu rời khỏi nguồn thức ăn tìm nơi cao, khô để thành nhộng. Có cơ chế tự mà sạch bản thân không còn vi khuẩn khi rời khỏi nguồn thức ăn

     – Giai đoạn phát triển thành kén (Nhộng): từ tiền nhộng khoảng 7 ngày sẽ phát triển thành kén (nhộng), có vỏ cứng và không di chuyển. 

     - Giai đoạn ruồi lính đen trưởng thành: Nhộng 10 ngày hoặc lâu hơn sẽ nở thành Ruồi lính đen kích thước dài thường khoảng 12 – 20 cm, chỉ sống khoảng 3 – 5 ngày và hoàn toàn không ăn uống gì cho đến chết. Ruồi lính đen đực và cái giao phối với nhau để sinh ra trứng. Mỗi con cái đẻ khoảng số lượng ước chừng là 500 – 800 trứng rồi chết. (Furman và cs.,1974).

Hình 1. Vòng đời phát triển của Ruồi lính đen (Ảnh: Jennifer Larouche)

     CÓ ĐƯỢC PHÉP NUÔI RUỒI LÍNH ĐEN? 

     Nghị định số 46/2022/NĐ-CP ngày 13 tháng 07 năm 2022 của Chính phủ xếp ruồi lính đen vào danh mục động vật khác được phép chăn nuôi. Đây là văn bản rất quan trọng với những người đang nuôi hoặc có dự kiến nuôi ruồi lính đen, mở đường cho sự phát triển nhanh chóng của ruồi lính đen tại Việt Nam.

     RUỒI LÍNH ĐEN TRƯỞNG THÀNH CÓ GÂY HẠI KHÔNG? 

     – Ruồi trưởng thành không ăn, chỉ uống nước do không có miệng do đó không cắn, đốt, không phá hoại mùa màng hay gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái tại địa phương

     – Ruồi trưởng thành chỉ quan tâm đến việc sinh sản, nghỉ ngơi.  Sinh sản gần thức ăn ôi thiu để ấu trùng dễ sinh sôi. Vì vậy, không bị thu hút bởi những thứ có trong nhà ngay cả khi được nuôi gần đó

     – Ấu trùng ruồi lính đen tự làm sạch bản thân khi tiến vào giai đoạn tạo nhộng và có đặc tính kháng khuẩn.  Vì vậy ấu trùng và ruồi trưởng thành không mang mầm bệnh và không truyền bất kỳ bệnh truyền nhiễm nào cho người, gia súc, gia cầm, cá và cây trồng.

     – Ruồi lính đen tồn tại trong điều kiện tự nhiên của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong quá trình xử lý rác thải hữu cơ, xác động vật, phế phụ phẩm nông nghiệp đã được nhiều cơ sở tại Việt Nam nghiên cứu, thu trứng tự nhiên, nuôi và sử dụng làm thức ăn chăn nuôi.

     Trong vòng đời của ruồi lính đen, chỉ có ấu trùng làm nhiệm vụ xử lý rác thải hữu cơ và tạo ra nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi và phân cho cây trồng.

Hình 2. Ruồi lính đen trưởng thành. (Ảnh: Pixabay)

     TẠI SAO NÊN NUÔI SÂU CANXI?

     Xử lý rác thải

     – Sâu canxi là sinh vật phân giải của tự nhiên và là người bạn và trợ thủ đắc lực của con người. Sâu canxi ăn một lượng lớn chất thải hữu cơ, từ phân vật nuôi đến thức ăn thừa. “chất thải” và chất gây ô nhiễm chuyển thành thức ăn chăn nuôi chất lượng cao, giàu đạm và dinh dưỡng cho vật nuôi.

     – Tốc độ xử lý chất thải nhanh, làm giảm lượng chất thải và đặc biệt là mùi hôi.

     – Giúp giảm thiểu sự sinh sôi của vi khuẩn có hại như Excherecia coli O157 (hay E. Coli) và Salmonella trong phân vật nuôi (Marilin C. Erickson, 2004).

     – Có thể ức chế ruồi nhà Musca domestica L (Klpatrick và SchooF, 1959; Furman, 1959; Tingle và cs,1975).

     – Các nghiên cứu của TS. Trần Tấn Việt, sau 1 – 3 ngày một tấn rác tươi sau khi xử lý tạo ra được 250 – 300 kg phân hữu cơ và 50 – 70 kg sâu canxi tươi. Một tấn phân lợn thu được 130 kg phân khô và 80kg sâu canxi tươi. Sâu canxi (tiền nhộng) có tỷ lệ chất khô là 40% và chứa 42% protein. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chí, Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết cứ 6 – 7 kg phân gia súc tươi thì sản xuất ra được 1 kg sâu canxi.

     – Sâu canxi có thể sản xuất với số lượng lớn trong điều kiện không gian hẹp vì chúng phát triển rất nhanh. Theo các nhà khoa học một nửa hecta (ha) nuôi sâu canxi có thể tạo ra lượng protein nhiều hơn cả 1.200 ha nuôi bò hay 52 ha trồng đậu nành.

     Làm thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi

     – Sâu canxi chứa nhiều chất béo, canxi và các khoáng chất khác, cũng như các vitamin thiết yếu cho sự phát triển khỏe mạnh của vật nuôi. Là thành phần của khẩu phần thức ăn hoàn chỉnh để hỗ trợ gà (O.M. Hale, 1977), lợn (G.L. Newton, 1977), cá hồi (St-Hilaire, 2007) và cá da trơn

     – Sâu canxi chứa kháng sinh tự nhiên giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh của gia súc, gia cầm và giúp vật nuôi phát triển khỏe mạnh. Đặc biệt, protein của ấu trùng ruồi lính đen rất giầu lysine; trong chất béo của ấu trùng ruồi lính đen có tới 54% là axit lauric, một axit có tác dụng tiêu diệt virus có vỏ bọc bằng lipid (như virus HIV, sởi) cũng như Clostridium và các protozoa gây bệnh.

     – Là nguồn thức ăn hoàn hảo cho thú nuôi với hàm lượng protein và canxi tự nhiên cao; Tỉ lệ Ca:P (1,5:1) hoàn hảo, hàm lượng canxi tự nhiên cao giúp cho sự hình thành, phát triển của xương và vỏ trứng. Hạn chế gia cầm bại liệt, đẻ non, đẻ giảm, tỷ lệ ấp nở thấp và gây ra hiện tưởng cắn mổ nhau. Bên cạnh đó nó chứa hàm lượng cao các acid amin và acid béo cần thiết. Ví dụ như Methionine là acid amin cần thiết cho cấu trúc của protein, nhưng hầu hết động vật không thể tự tổng hợp được mà phải hấp thụ từ các chuỗi thức ăn khác nhau.

     – Sâu canxi đang được nghiên cứu để phát triển các loại thuốc kháng khuẩn để phòng và điều trị bệnh cho vật nuôi

      – Ấu trùng sống luôn luôn hoạt động điều này kích thích bản năng săn mồi tự nhiên của vật nuôi.

     Phân sâu canxi sử dụng cho cây trồng

     – Quá trình tiêu hóa chất thải hữu cơ được hệ tiêu hóa của sâu canxi và hệ vi sinh vật cộng sinh trong đường tiêu hóa tạo ra loại phân hữu cơ vi sinh chất lượng cao, phân có hàm lượng nito cao và chứa nhiều vi sinh vật. Sau khi ủ, phân của sâu canxi là chất cải tạo đất hiệu quả, và là phân bón tốt cho cây trồng với hàm lượng dinh dưỡng cao hơn phân trâu bò, lợn, gia cầm.

     – Phân sâu canxi được khuyến khích làm thức ăn cho trùn quế để tạo thêm thức ăn cho vật nuôi, tạo phân hữu cơ cho cây trồng và tạo nên vòng tuần hoàn: Phân gia súc- Sâu canxi-trùn quế mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho nông dân

     Sâu canxi có ăn được không?

     Theo Tổ chức Nông lương quốc tế (FAO), khoảng 2 tỷ người trên thế giới hiện nay thường xuyên dùng côn trùng làm thực phẩm. “Sâu canxi chắc chắn sẽ tạo nên cuộc cách mạng trong ngành nông nghiệp. Cản trở duy nhất hiện nay là việc người tiêu dùng có công nhận nguồn Protein từ RUỒI, vốn thường được xem là một loài mất vệ sinh hay không”. GS Louw Hoffman, ĐH Queensland.

Trích dẫn bài viết: TS. Phạm Thanh Hải – nguyên Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ

Liên hệ

Địa chỉ: 54/17 Bùi Quang Là, P.12, Quận Gò Vấp, TP. HCM.

Điện thoại: (+84) 989 596 877

Email: vienhuucoachau@gmail.com

 

MAP

Facebook