AOI đồng hành cùng doanh nghiệp và nông dân nỗ lực vì sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững

Bài 2: Tổng quan những nghiên cứu về giống cây trồng trong sản xuất hữu cơ

 

     Nhóm Admin xin giới thiệu bài nghiên cứu dưới đây do Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang tổng hợp:

  1. Nghiên cứu cây trồng nông nghiệp hữu cơ - hiện trạng và cơ hội phát triển trong tương lai

 5eec4e94245ae304ba4b

   Tác giả Ivan Tsvetkov và ctv (2018) đã có bài báo đánh giá sự phát triển gần đây của các khía cạnh khoa học, lập pháp, kinh tế và môi trường của canh tác cây trồng hữu cơ. Tác động của canh tác hữu cơ đến đa dạng sinh học và độ phì nhiêu của đất được thảo luận so với các hệ thống canh tác thông thường. Một rào cản đáng kể cho việc áp dụng rộng rãi và phát triển trong tương lai của nông nghiệp hữu cơ là sự đa dạng hiện có của các công cụ chính sách quốc gia và quốc tế trong lĩnh vực này. Đặc biệt chú ý đến các kỹ thuật nghiên cứu cập nhật có thể giúp giải quyết một số vấn đề thường gặp phải trong canh tác hữu cơ cây trồng. Có ý kiến cho rằng canh tác hữu cơ vẫn chưa đáp ứng đủ năng suất để được coi là hoàn toàn bền vững. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết được hỗ trợ mạnh mẽ để thực hiện hiệu quả hơn các đổi mới nghiên cứu khoa học và cải thiện mạng lưới giữa tất cả các bên liên quan như- các nhà sản xuất hữu cơ, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách tương ứng ở cấp quốc gia và quốc tế.

Hình 1: Sự phối hợp sản xuất, tổ chức liên kết giữa nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp tham gia các ĐTDA hữu cơ. Nhà nước cùng doanh nghiệp đầu tư, hỗ trợ, tìm kiếm đầu ra sản phẩm, các nhà khoa học tham gia tập huấn, chuyển giao kỹ thuật và tư vấn, theo sát đồng hành cùng nông dân trong suốt quá trình thực hiện. Để có được sản phẩm thực sự hữu cơ, sự liên kết thực hiện của “4 nhà” là điều rất quan trọng.

Hình giới thiệu hoạt động liên kết được thực hiện ở xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang của nhóm thực hiện ĐT 4 H. (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI).

 

  1. Khảo nghiệm giống hữu cơ - Phương pháp phân tích hàm lượng định tính để đánh giá khảo nghiệm giống hữu cơ, trường hợp nghiên cứu điển hình của Đức.

26d68aa8e06627387e77

Gutzen, Kaja (2019) đã có đề tài luận án Thạc sỹ với chủ đề Khảo nghiệm giống hữu cơ - Phương pháp phân tích hàm lượng định tính để đánh giá khảo nghiệm giống hữu cơ, trường hợp nghiên cứu điển hình của Đức. Công trình nghiên cứu này sẽ góp phần hiểu rõ hơn về việc thử nghiệm giống như một rào cản tiềm năng để phát hành các giống hữu cơ. Hệ thống đăng ký hữu cơ và kiểm tra sau đăng ký của Đức đối với các loài cây và rau nông nghiệp được so sánh với các hệ thống khác ở các Quốc gia Thành viên EU. Các cuộc phỏng vấn chuyên gia với Văn phòng Giống cây trồng Liên bang, ba điều phối viên thử nghiệm sau đăng ký của Văn phòng Liên bang và bảy nhà lai tạo trên khắp nước Đức được phân tích định tính nhằm xác định ưu điểm và nhược điểm của hệ thống khảo nghiệm hiện có. Trong bối cảnh này, các giả thuyết sau được xem xét: (1) Định nghĩa về “giống hữu cơ thích hợp cho sản xuất hữu cơ”, trong quy định hữu cơ mới (EU) 2018/848, thể hiện sự hạn chế của các giống có sẵn cho nông dân hữu cơ; (2) Thử nghiệm đa dạng trong điều kiện hữu cơ là cần thiết để xác định các loài cây và rau nông nghiệp hữu cơ phù hợp với nông nghiệp hữu cơ (KTMT); (3) Các giao thức DUS (tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định) và VCU (giá trị canh tác và sử dụng) hiện tại không đủ để đánh giá các giống hữu cơ. Các tiêu chí kiểm tra cần được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của lĩnh vực hữu cơ; và (4) Các nước thành viên EU cần cố gắng thực hiện hài hòa và các phương pháp tiêu chuẩn hóa để mở rộng chủng loại đa dạng cho lĩnh vực hữu cơ.

     (1) Định nghĩa về “giống hữu cơ thích hợp cho sản xuất hữu cơ” để lại quyền tự do giải thích, và do đó, cản trở việc thực hiện thống nhất trên toàn EU. (2) Thử nghiệm đa dạng trong điều kiện hữu cơ là cần thiết để xác định một số đặc điểm nhất định trên cây nông nghiệp và rau quả là quan trọng đối với nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, tồn tại sự không giống nhau về việc thiết kế thử nghiệm giống hữu cơ và liệu các thử nghiệm hữu cơ và thông thường có thể được kết hợp để đạt được cùng một kết luận hiệu quả hơn hay không. (3) Các giao thức DUS và VCU hiện tại được thiết kế cho các cây trồng có tầm quan trọng kinh tế chính và không thích hợp cho các cây trồng phụ. Các phương án đăng ký thay thế được coi là hạn chế và không có khả năng bảo hộ giống. Do đó, nhu cầu được xác định để thích ứng với các giao thức DUS và VCU. Bất đồng tồn tại về cách thức thích ứng. (4) Trong toàn EU, việc khảo nghiệm giống diễn ra ở các cấp độ khác nhau của cơ cấu tổ chức và thiết kế khảo nghiệm. Tiêu chuẩn hóa thử nghiệm giống hữu cơ có thể cải thiện chất lượng thử nghiệm, và do đó, tăng khối lượng giống hữu cơ và giống thích nghi. Sự hỗ trợ của chính phủ đối với chọn tạo giống hữu cơ và khảo nghiệm giống hữu cơ là rất quan trọng.

Hình 2: Sản phẩm muốn đạt chứng nhận hữu cơ, thì giống sản xuất phải là nguồn rõ ràng, có chứng nhận hữu cơ. Nên việc chọn lựa giống sản xuất là rất quan trọng, lựa chọn phù hợp với nhu cầu thị trường để doanh nghiệp hỗ trợ đầu ra dễ dàng hơn.

Hiện nay ở ĐBSCL, vùng lúa-tôm các dự án sản xuất lúa hữu cơ thường áp dụng giống lúa có chất lượng ngon nhất, nhì thế giới như ST 24, ST 25. Vùng chuyên canh lúa đang ưu tiên chọn giống gạo hạt tròn Japonica (DS1) được ưa chuộng tại Nhật và nhiều nước khác.

Trong hình là giống lúa DS1 đựợc nông dân tại HTX Thành Công sản xuất trong khuôn khổ đề tài 4H năm 2021. (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI)

  1. Nhu cầu chọn tạo các giống cây trồng thích hợp cho canh tác hữu cơ, sử dụng lúa mì, cà chua và bông cải xanh làm ví dụ

8cbce61e8dd04a8e13c1

 Người ta ước tính rằng hơn 95% sản xuất hữu cơ dựa trên các giống cây trồng đã được lai tạo cho lĩnh vực đầu vào sản xuất thông thường. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các giống này thiếu các đặc điểm quan trọng cần thiết trong điều kiện sản xuất hữu cơ và sản xuất với đầu vào thấp. Điều này chủ yếu là do việc chọn lọc trong các chương trình nhân giống thông thường được thực hiện trên cơ sở phân bón vô cơ cao và các chất đầu vào bảo vệ thực vật cao. Ngoài ra, một số đặc điểm (ví dụ, kiểu gen bán lùn) đã được đưa vào để giải quyết các vấn đề như đổ ngã trong ngũ cốc trong hệ thống đầu vào cao đã được chứng minh là có tác dụng phụ tiêu cực (giảm khả năng chống lại các bệnh như Septoria, hàm lượng protein thấp hơn và hiệu quả sử dụng chất dinh dưỡng kém hơn) về năng suất của các giống trong điều kiện nông học hữu cơ và đầu vào thấp. Bài báo tổng quan này sử dụng lúa mì, cà chua và bông cải xanh làm ví dụ, đã mô tả như sau: (1) các đặc điểm chính cần có trong điều kiện đầu vào thấp, (2) các chương trình nhân giống hiện tại cho nông nghiệp hữu cơ, đầu vào thấp, (3) các phương pháp chọn giống hiện có và / hoặc các phương pháp tiếp cận lựa chọn, và (4) những lợi ích và tác dụng phụ tiêu cực tiềm ẩn của các phương pháp chọn giống khác nhau và khả năng chấp nhận tương đối của chúng theo các nguyên tắc canh tác hữu cơ. (E.T.Lammerts van Bueren và ctv, 2011).

Hình 3: Ngoài sản xuất lúa, các sản phẩm từ rau màu, cây ăn quả cũng được thúc đẩy xây dựng sản xuất theo quy trình hữu cơ, giá trị dinh dưỡng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường cao. Cần được sự quan tâm tư nhà nước, doanh nghiệp hỗ trợ xây dựng vùng trồng và hỗ trợ đầu ra.

Hình trên, nhóm cán bộ Viện AOI gặp gỡ doanh nghiệp, cơ quan quản lý NN Thành phố Cần Thơ thúc đẩy xây dựng mô hình rau, cây ăn quả hữu cơ tại TP. Cần Thơ cuối năm 2021. (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI)

 

 

 

  1. Bằng chứng về sự thích nghi của giống đối với các hệ thống canh tác hữu cơ

     Tác giả Kevin Murphy và ctv, (2007) cho rằng, nhu cầu của người tiêu dùng thay đổi do các tác động của nông nghiệp thông thường đối với môi trường và sức khỏe con người đã thúc đẩy sự phát triển của các hệ thống canh tác hữu cơ; tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ thường bị chỉ trích là năng suất thấp và không thể sản xuất đủ lương thực để cung cấp cho dân số thế giới.

a5c20d44668aa1d4f89b

     Sử dụng lúa mì như một loài cây trồng kiểu mẫu, chúng tôi chỉ ra rằng những giống cây trồng kém thích nghi là nguyên nhân một phần dẫn đến năng suất thấp hơn thường thấy trong các hệ thống canh tác hữu cơ khi so sánh với các hệ thống canh tác thông thường. Kết quả của chúng tôi chứng minh rằng các kiểu gen lúa mì mùa đông cho gạo trắng, mềm, năng suất cao nhất trong các hệ thống thông thường không phải là các kiểu gen năng suất cao nhất trong các hệ thống hữu cơ.

     Một phân tích phương sai về năng suất giữa 35 kiểu gen giữa hệ thống hữu cơ và thông thường được so sánh cặp cho thấy kiểu gen × tương tác hệ thống có ý nghĩa cao (P <0,001) ở bốn trong năm địa điểm nghiên cứu. Phân tích xếp hạng kiểu gen sử dụng hệ số tương quan thứ hạng của Spearman (RS) cho thấy không có mối tương quan giữa xếp hạng kiểu gen đối với năng suất ở bốn trong năm địa điểm nghiên cứu; tuy nhiên, các cấp bậc có tương quan với trọng lượng thử nghiệm ở cả năm địa điểm.

     Điều này chỉ ra rằng việc tăng năng suất trong các hệ thống hữu cơ thông qua chọn tạo giống sẽ đòi hỏi sự lựa chọn trực tiếp trong các hệ thống hữu cơ hơn là sự lựa chọn gián tiếp trong các hệ thống thông thường. Chọn lọc trực tiếp trong các hệ thống hữu cơ tạo ra năng suất cao hơn 15%, 7%, 31% và 5% so với năng suất do chọn lọc gián tiếp cho các địa điểm 1–4, tương ứng. Với các giống cây trồng được lai tạo và thích nghi với các điều kiện độc đáo vốn có trong hệ thống hữu cơ, nông nghiệp hữu cơ sẽ có thể phát huy hết tiềm năng của nó như một giải pháp thay thế năng suất cao đối với nông nghiệp thông thường. (Kevin Murphy và ctv, 2007).

Hình 4: Ở Việt Nam, ngoài lúa, các giống cây công nghiệp có giá trị kinh tế đang dần đi vào sản xuất hữu cơ có chứng nhận. Tiêu hữu cơ đã được chứng nhận đạt các tiêu chuẩn quốc tế tại Kiên Giang, Tây Nguyên từ năm 2018 (với các giống tiêu Phú, Quóc, Vĩnh Linh). Cà phê hữu cơ bắt đầu được chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ EU và USDA từ năm 2022 tại HTX Linh Nham, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.

Hình trên, bên trái: Mô hình tiêu hữu cơ được chứng nhận các tiêu chuẩn quóc tế đầu tiên tại huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang năm 2017. Hình bên phải: Đoàn cán bộ Viện AOI gặp gỡ các doanh nghiêp trên Tây Nguyên thúc đẩy xây dựng các mô hình tiêu, cà phê bền vững, hữu cơ (năm 2020). (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI).

  1. Tính khả thi của các kỹ thuật chọn tạo giống mới trong canh tác hữu cơ

     Tác giả Martin Marchman Andersen và ctv (2015) cho rằng Nông nghiệp hữu cơ dựa trên khái niệm tác động ‘Với thiên nhiên’ thay vì chống lại nó; tuy nhiên, so sánh với canh tác thông thường, canh tác hữu cơ được báo cáo có năng suất thấp hơn. Lý tưởng nhất, mục tiêu phải là thu hẹp khoảng cách năng suất này. Trong bài đánh giá này, tác giả đặc biệt thảo luận về tính khả thi của các kỹ thuật chọn giống mới (NBT- new breeding techniques) để phục hồi (rewilding), một  quá trình liên quan đến việc giới thiệu lại các thuộc tính từ các họ hàng hoang dã của cây trồng, như một phương pháp thu hẹp khoảng cách năng suất. Hiệu quả nhất của phương pháp rewilding (người viết tạm gọi là phục hồi),  dựa trên kỹ thuật công nghệ sinh học hiện đại, vẫn chưa được chấp nhận bởi phong trào nông nghiệp hữu cơ. Do đó, câu hỏi đặt ra về việc liệu việc áp dụng các phương pháp đó có khả thi hay không, không chỉ từ góc độ công nghệ, mà còn từ khái niệm, kinh tế xã hội, đạo đức và quy định về quan điểm. 

Bài báo đi đến Kết luận

     Hầu như ngày càng có nhiều sự công nhận giữa các nhà chọn giống và nông dân rằng các đặc điểm tự nhiên có giá trị đã bị mất ở cả hai hệ thống cây trồng thông thường và hữu cơ. Một sự hiểu biết chung sự khác biệt giữa canh tác hữu cơ và thông thường là NN hữu cơ là cấm sử dụng hóa chất hòa tan đầu vào cũng như thuốc diệt cỏ tổng hợp và thuốc diệt sâu bệnh. Một số NBT (công nghệ chọn giống mới) dường như đại diện cho một phương tiện khả thi để giảm nhu cầu về các hóa chất đó. Trái ngược với chuyển gen, nơi các gen mới được đưa vào một sinh vật, nhân giống ngược là một kỹ thuật đưa cây trồng trở lại tự nhiên bằng cách trang bị cho chúng những vật liệu đã mất mà tổ tiên chúng đã từng có. Các ví dụ hiện có về các nguyên lý hữu cơ do IFOAM đề xướng đã bác bỏ kỹ thuật di truyền trên tiền đề rằng nó không thể đoán trước được (tủi ro). Tuy nhiên, đây không phải là một xác định thuộc tính của kỹ thuật di truyền, nhưng có thể thay đổi vấn đề thực nghiệm. Cụ thể, có vẻ như các sinh vật được phục hồi (rewilding) hoàn toàn thành công sẽ không còn (vấn đề) không thể đoán trước được nữa hoặc rủi ro hơn tổ tiên của chúng. Hơn nữa, trong các cuộc tranh luận liên quan đến nông nghiệp, người ta thường khẳng định rằng "tính bền vững", "Tính tự nhiên" và "tính toàn vẹn" thể hiện mối quan tâm vốn dĩ không tương thích với NBTs hoặc rewilding. Tuy nhiên, Không rõ tại sao điều này phải như vậy, mặc dù nó phải được thừa nhận rằng nó có thể như vậy đối với một số nhóm, tùy thuộc vào cách giải thích của họ. Cuối cùng, phải lưu ý rằng tiềm năng sử dụng NBTs trong canh tác hữu cơ là giới hạn trong EU, nơi mà khuôn khổ quy định hiện tại dựa trên quy trình và do đó, sẽ phân loại các sản phẩm chuyên nghiệp được tạo ra bằng cách sử dụng NBT như là GMO. (Martin Marchman Andersen và ctv, 2015)

6. Những nghiên cứu về giống lúa trong sản xuất hữu cơ trên thế giới

     Vanaja, T. và ctv., (2013) đã viết: phát triển giống cây trồng mà ít phụ thuộc vào phân bón hóa học là một giải pháp bền vững cho sản xuất nông nghiệp. Nhóm tác giả này đã phát triển một giống lúa mới, là một kiểu giống đầu tiên có tiêu chí tổng quát của một giống lúa hữu cơ, đồng thời cũng thích hợp cho sản xuất vô cơ, và với chất lượng cơm ngon và dinh dưỡng cao. Các phương pháp được áp dụng để phát triển giống cây trồng này là một chiến lược kết hợp chọn giống theo phả hệ, nhân giống cây trồng hữu cơ, và các phương pháp chọn tạo có sự tham gia của nông dân. Quan tâm việc chọn tiêu chuẩn nhiều hạt, năng suất hạt cao và tiềm năng năng suất rơm rạ cao thậm chí trong điều kiện sản xuất hữu cơ và điều kiện đất không thuận lợi. Đồng thời với các tiêu chuẩn chất lượng gạo ngon và các đặc điểm về giống lúa hữu cơ. Nông dân bắt đầu sử dụng giống này canh tác trên diện rộng ngay cả trước khi nó được phóng thích thương mại. Giống có tên gọi là Culture MK 157, là một giống mới được phóng thích ở tiểu bang Kerala của Ấn Độ.

     Jingqi Guo (2016), qua nghiên cứu về ảnh hưởng của giống lúa và quản lý dinh dưỡng trong sản xuất lúa hữu cơ, tác giả đi đến kết luận quan trọng: ‘Trong hệ thống sản xuất lúa hữu cơ, giống lúa cũng là một yếu tố căn bản ảnh hưởng sản xuất như năng suất và thành phần năng suất, trong hoặc như một nguồn duy nhất của sự biến đổi hoặc tương tác với điều kiện môi trường và quản lý dinh dưỡng. Là một thành phần quan trọng của chất lượng hạt, chất lượng protein trong nghiên cứu này đã được chứng minh liên quan chặt chẽ với giống lúa’.

7. Những nghiên cứu về chọn tạo giống lúa tại ĐBSCL

     Trong số các giống lúa được tạo ra ở nước ta phần lớn là do lai tạo. Hiện nay, chúng ta có rất đa dạng các giống lúa về thời gian sinh trưởng ngắn ngày, cho đến dài ngày, giống lúa năng suất cao phẩm chất tốt, giống lúa thơm đặc sản… có khả năng đáp ứng được cơ bản những thị trường dễ tính cho đến khó tính. Một số giống lúa đang được thịnh hành theo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu là các giống lúa do cơ quan nhà nước, công ty và cá nhân lai tạo tuyển chọn ra như: Viện Lúa ĐBSCL các giống lúa OM như OM 4900, OM 3536, OM 5451, OM 18, …; Công ty do anh hùng lao động Hồ Quang Cua sáng lập tạo ra các giống ST nổi tiếng số 1 và số 2 thế giới là ST25 và ST24…; cá nhân như nông dân Danh Dưỡng, ở Thoại Sơn, An Giang, có tạo chọn giống lúa Hồng Ngọc (Óc Eo), giống lúa tím than (được công ty quan tâm phát triển sản phẩm hữu cơ). Giống lúa AG1 do tác giả Huỳnh Quang Tín (Viện Nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long) và cộng sự lai chọn. Giống có thời gian sinh trưởng từ 90-95 ngày. Năng suất trung bình đạt 7-8 tấn/ha. Tỷ lệ gạo nguyên: 48,6-48,7%; tỷ lệ bạc bụng: 0,7-09%; chiều dài hạt gạo: 7,12-7,13 mm; tỷ lệ D/R: 3,3; hàm lượng Amylose khoảng 14,6%. Chất lượng cơm mềm dẽo; thơm nhẹ; hàm lượng protein đạt mức trung bình (8,7%); giống kháng được bệnh cháy lá cấp 1-3 và thích nghi được với đấy phèn và mặn.

     Các giống lúa Mùa của An Giang được bảo tồn thông qua sản phẩm chế biến do chất lượng gạo chưa cao. Ngoài ra có một số giống lúa của Công ty Lộc Trời, các giống lúa ngoại nhập của Nhật Bản, Thái Lan và của Viện lúa quốc tế IRRI …

     Những thành tựu trên là sự nỗ lực của các nhà khoa học và quản lý nông nghiệp góp phần tích cực nâng cao sản lượng và diện tích lúa trên toàn quốc. Vì thế, việc nghiên cứu, đánh giá từng giống lúa thích hợp với các vùng sinh thái và kỹ thuật canh tác nhằm phát huy hết tiềm năng của giống là một biện pháp hữu ích, mang lại hiệu quả cho sản xuất.

BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ KINH TẾ XÃ HỘI SẢN XUẤT LÚA GẠO HỮU CƠ

Nhóm Admin xin giới thiệu bài tổng quan dưới đây do Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang tổng hợp:

  1. Tình hình sản xuất lúa gạo hữu cơ trên thế giới

Theo thống kê của tổ chức FiBL (FiBL Statistics - Area for selected crops, online 27/6/2022), diện tích sản xuất lúa hữu cơ tính đến năm 2020 là 623.195,43 ha. Thực tế cho thấy, nông nghiệp hữu cơ nói chung và lúa hữu cơ nói riêng trên thế giới mới chỉ bắt đầu với diện tich nhỏ. Tính đến 2017, chưa đến 2% tổng diện tích lúa của Hoa Kỳ được sản xuất theo phương pháp hữu cơ. Và hầu hết được trồng ở California và Texas. (Kathleen Phillips, 2017).

Về thị trường, theo Business Wire (2022), đã theo dõi thị trường gạo hữu cơ cho biết nó đã sẵn sàng để tăng 1,76 tỷ đô la trong giai đoạn 2020-2024, đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 6% trong giai đoạn dự báo.

Các báo cáo về thị trường gạo hữu cơ cung cấp phân tích tổng thể, quy mô thị trường và dự báo, xu hướng, động lực tăng trưởng và thách thức, cũng như phân tích nhà cung cấp bao gồm khoảng 25 nhà cung cấp.

Được biết thị trường được thúc đẩy bởi nhận thức ngày càng cao về các sản phẩm thực phẩm không chứa gluten và tiêu thụ gạo hữu cơ ngày càng tăng.

Phân tích thị trường gạo hữu cơ bao gồm phân khúc sản phẩm và cảnh quan địa lý. Nghiên cứu này xác định việc sử dụng ngày càng nhiều bột gạo hữu cơ là một trong những lý do chính thúc đẩy thị trường gạo hữu cơ tăng trưởng trong vài năm tới.

Hình 1: Các dự án Sản xuất lúa hữu cơ cần có sự tổ chức liên kết giữa nông dân và các doanh nghiệp tham gia dự án. Do đó, khi mới bắt đầu, dự án cần sự hỗ trợ và thức đẩy của “4 nhà”. Trong đó, sự liên kết chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân/HTX quyết định hiệu quả của dự án.

Hình giới thiệu hoạt động liên kết được thực hiện ở THT ấp 15, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Sóc Trăng từ năm 2021.

  1. Hiệu quả kinh tế xã hội sản xuất lúa hữu cơ

Ấn Độ hiện nay là một trong những nước có nhiều sản phẩm sản xuất hữu cơ nhất thế giới và cũng có nhiều cơ quan nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhất. Nghiên cứu về kỹ thuật canh tác và áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa hữu cơ và so sánh với vô cơ như sau:

Báo cáo của Y.V. Singh (2011), cho một số thông tin quan trọng liên quan đến sản xuất lúa hữu cơ như : Nông dân Ấn Độ từ xa xưa đã trồng trọt hữu cơ; Dần dần chuyển sang canh tác áp dụng hóa học từ những năm 1950; Phương pháp hóa học gia tăng trong cuộc cách mạng xanh; Việc sử dụng hóa học tự do đã dẫn đến rủi ro cho sức khỏe; Nhiều báo cáo về ô nhiễm không khí, nước và đất ở khắp mọi nơi; Độ màu mỡ của đất giảm ở nhiều vùng sinh thái; Năng suất không tăng và hiệu quả sản xuất giảm. Từ đó gia tăng nhu cầu phát triển thực phẩm an toàn và bảo vệ môi trường và khuynh hướng mới bắt đầu trở lại sản xuất hữu cơ.

Thomas Marmefelt, (2011) cho rằng, như nhiều nước kém phát triển khác, nông dân Lào phụ thuộc rất nặng nề vào sản xuất tự cung, tự cấp dựa vào nông nghiệp sinh kế của họ. Một yếu tố quan trọng cho việc cho gia tăng phúc lợi cho người dân nông thôn ở Lào đặc biệt là cho nông dân sản xuất nhỏ, là gia tăng lợi nhuận trong sản xuất. Một giải pháp khả thi trong việc gia tăng lợi nhuận cho nông dân Lào là dịch chuyển từ sản xuất thông thường sang sản xuất hữu cơ định hướng xuất khẩu, bởi vì thị trường quốc tế cho lúa gạo hữu cơ đang phát triển, người tiêu thụ hữu cơ sẵn sàng mua sản phẩm có giá trị ưu đãi hơn sản phẩm thông thường và các điều kiện cho sản xuất lúa hữu cơ là khá thuận lợi ở Lào. Sản xuất lúa hữu cơ ở Lào đã phát triển trong thập kỹ qua khi có một số lượng sản phẩm lúa hữu cơ khá lớn sản xuất và xuất khẩu. Lúa hữu cơ chủ yếu sản xuất bởi nông hộ sản xuất nhỏ trong các dự án tài trợ hoặc nông dân hợp đồng cung cấp cho các công ty nông nghiệp.

22

Hình 2: Nhằm giúp cho nông dân tham gia dự án sản xuất lúa hữu cơ cơ thu nhập cao, doanh nghiệp cần chọn giống lúa phù họp vùng dự án, đáp ưng đầy đủ chất lượng và số lượng theo nhu cầu thị trường.

Hiện nay ở ĐBSCL, vùng lúa-tôm các dự án sản xuất lúa hữu cơ thường áp dụng giống lúa có chất lượng ngon nhất, nhì thế giới như ST 24, ST 25.

Trong hinh là giống lúa ST 24 đựợc nông dân sản xuất trong mô hình liên kết sản xuất lúa hữu cơ tại huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh năm 2020.

Sa Kennvidy (2011) nhấn mạnh rằng canh tác hữu cơ là một hệ thống quan trọng của nông nghiệp và sản xuất lương thực, đó là gìn giữ môi trường bền vững và có thể tạo ra nhiều tác động tích cực đối với cộng đồng nông thôn. Sự phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Cambodia đang ở giai đoạn bắt đầu. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định nhận thức của nông dân về trồng lúa hữu cơ và phân tích hiệu quả kinh tế của hệ thống. Thu thập dữ liệu đã được tiến hành thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn, hai loại bảng câu hỏi và quan sát cá nhân trong khi thống kê mô tả và suy luận được phân tích với việc sử dụng các phần mềm thống kê cho ngành khoa học xã hội hoặc phần mềm SPSS. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy đa số nông dân chuyển đổi sang canh tác hữu cơ bởi vì giá bán cao với sản phẩm hữu cơ và thu nhập của họ được gia tăng 15 % so với canh tác thông thường. Thích ứng với trồng lúa hữu cơ có thể làm tăng năng suất lúa lên 5 % từ 2,46 lên 2,59 tấn mỗi ha. Chênh lệch gia tăng sản lượng lúa tương đương với 21 %. Hơn nữa, hệ thống canh tác hữu cơ có thể được ổn định hơn từ việc phân tích hiệu quả kinh tế cao hơn so với hệ thống canh tác thông thường.

Thomas Marmefelt, (2011) cũng nghiên cứu nguyên nhân đằng sau việc chuyển đổi cấu trúc này bằng cách kết hợp các lý thuyết kinh tế tiến hóa bởi các nhà lý thuyết như Schumpeter, (1911); Dahmén, (1950) và Marmefelt, (1998); trong đó tập trung vào đổi mới doanh nghiệp và các ngân hàng cho vay làm cơ sở cho những thay đổi trong nền kinh tế. Bằng cách thực hiện một phân tích chuyển đổi từ mô hình của Dahménian của quá trình chuyển đổi từ mô hình thông thường – sang sản xuất lúa hữu cơ trong khối phát triển xung quanh sản xuất lúa tại Lào, để xác định áp lực gây nên sự chuyển đổi diễn ra. Nhấn mạnh đặc biệt cho vai trò của nông nghiệp hợp đồng (contract farming) trong quá trình này. Các phân tích cho thấy hai loại áp lực chuyển đổi rất có thể đã làm cho nông dân chuyển đổi sản xuất hữu cơ. Trước hết nó có khả năng là mức giá tương đối cao hơn trả cho lúa hữu cơ (cao hơn so với lúa thông thường là 42 phần trăm) đã thuyết phục nông dân trong quá trình chuyển đổi. Đây là loại áp lực chuyển đổi có thể được xem như thị trường lôi kéo, vì nó bắt nguồn từ một nhu cầu tăng tại các thị trường quốc tế, do đó làm tăng giá tương đối cho sản phẩm. Điều này đã dẫn đến năng suất tăng lên, kết hợp với giá cao, tạo ra lợi nhuận cao hơn cho nông dân hợp đồng hữu cơ. Việc đổi mới phương pháp sản xuất có thể được xem như một loại thị trường đẩy áp lực chuyển đổi nguồn gốc từ phía cung.

Trong bài báo, tác giả cho rằng nó không chắc rằng việc chuyển đổi sẽ xảy ra nếu không có sự tham gia của các công ty nông nghiệp hợp đồng. Ngay chính riêng mình, người nông dân đã không có phương tiện để phát triển lúa gạo hữu cơ, cũng không phải là kênh thị trường thích hợp để chế biến và bán gạo hữu cơ trên thị trường quốc tế. Tác giả lập luận rằng khả năng nuôi công ty của hợp đồng để tạo điều kiện thông tin tín hiệu giá từ thị trường quốc tế cho nông dân, cung cấp quyền truy cập vào các thị trường mới thông qua các liên kết thị trường và cung cấp các khoản tín dụng cho đầu vào mới cũng như hỗ trợ kỹ thuật về cơ bản chuyển sang làm lúa hữu cơ.

Tuy nhiên các phân tích cũng cho thấy rằng các công ty nông nghiệp hợp đồng bị hạn chế khả năng để thực hiện đầy đủ vai trò của nó như là một điều phối viên trong những tiến bộ của sản xuất lúa hữu cơ, trong điều khoản của một ngân hàng, vì khả năng hạn chế để giải quyết vướng mắc trong chuỗi giá trị. Lý do cho điều này chủ yếu là giới hạn nguồn lực tài chính để tài trợ cho các khoản đầu tư bổ sung vào các bộ phận khác cùng khối phát triển.

3132

Hình 3: Ngoài gióng lúa có chất lượng gạo ngon nhất nhì thế giới được trồng ở vùng lúa-tôm, các dự án lúa hữu cơ còn nhu cầu các giống lúa Japonica , gạo tròn , cơm dểo, chất lượng thơm ngon phục vụ cho các thị trường nhu cầu như Nhật Bản, các nước Châu Á và các nước khác.

Hinh giới thiệu mô hình lúa hữu cơ liên kết sản xuất gióng lúa Nhật DS 1 tại huyện Tri Tôn, An Giang năm 2020-2021.

Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang

 

BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ KINH TẾ XÃ HỘI SẢN XUẤT LÚA GẠO HỮU CƠ

Nhóm Admin xin giới thiệu bài tổng quan dưới đây do Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang tổng hợp:

  1. Tình hình sản xuất lúa gạo hữu cơ trên thế giới

Theo thống kê của tổ chức FiBL (FiBL Statistics - Area for selected crops, online 27/6/2022), diện tích sản xuất lúa hữu cơ tính đến năm 2020 là 623.195,43 ha. Thực tế cho thấy, nông nghiệp hữu cơ nói chung và lúa hữu cơ nói riêng trên thế giới mới chỉ bắt đầu với diện tich nhỏ. Tính đến 2017, chưa đến 2% tổng diện tích lúa của Hoa Kỳ được sản xuất theo phương pháp hữu cơ. Và hầu hết được trồng ở California và Texas. (Kathleen Phillips, 2017).

Về thị trường, theo Business Wire (2022), đã theo dõi thị trường gạo hữu cơ cho biết nó đã sẵn sàng để tăng 1,76 tỷ đô la trong giai đoạn 2020-2024, đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 6% trong giai đoạn dự báo.

Các báo cáo về thị trường gạo hữu cơ cung cấp phân tích tổng thể, quy mô thị trường và dự báo, xu hướng, động lực tăng trưởng và thách thức, cũng như phân tích nhà cung cấp bao gồm khoảng 25 nhà cung cấp.

Được biết thị trường được thúc đẩy bởi nhận thức ngày càng cao về các sản phẩm thực phẩm không chứa gluten và tiêu thụ gạo hữu cơ ngày càng tăng.

Phân tích thị trường gạo hữu cơ bao gồm phân khúc sản phẩm và cảnh quan địa lý. Nghiên cứu này xác định việc sử dụng ngày càng nhiều bột gạo hữu cơ là một trong những lý do chính thúc đẩy thị trường gạo hữu cơ tăng trưởng trong vài năm tới.

Hình 1: Các dự án Sản xuất lúa hữu cơ cần có sự tổ chức liên kết giữa nông dân và các doanh nghiệp tham gia dự án. Do đó, khi mới bắt đầu, dự án cần sự hỗ trợ và thức đẩy của “4 nhà”. Trong đó, sự liên kết chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân/HTX quyết định hiệu quả của dự án.

Hình giới thiệu hoạt động liên kết được thực hiện ở THT ấp 15, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Sóc Trăng từ năm 2021.

  1. Hiệu quả kinh tế xã hội sản xuất lúa hữu cơ

Ấn Độ hiện nay là một trong những nước có nhiều sản phẩm sản xuất hữu cơ nhất thế giới và cũng có nhiều cơ quan nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhất. Nghiên cứu về kỹ thuật canh tác và áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa hữu cơ và so sánh với vô cơ như sau:

Báo cáo của Y.V. Singh (2011), cho một số thông tin quan trọng liên quan đến sản xuất lúa hữu cơ như : Nông dân Ấn Độ từ xa xưa đã trồng trọt hữu cơ; Dần dần chuyển sang canh tác áp dụng hóa học từ những năm 1950; Phương pháp hóa học gia tăng trong cuộc cách mạng xanh; Việc sử dụng hóa học tự do đã dẫn đến rủi ro cho sức khỏe; Nhiều báo cáo về ô nhiễm không khí, nước và đất ở khắp mọi nơi; Độ màu mỡ của đất giảm ở nhiều vùng sinh thái; Năng suất không tăng và hiệu quả sản xuất giảm. Từ đó gia tăng nhu cầu phát triển thực phẩm an toàn và bảo vệ môi trường và khuynh hướng mới bắt đầu trở lại sản xuất hữu cơ.

Thomas Marmefelt, (2011) cho rằng, như nhiều nước kém phát triển khác, nông dân Lào phụ thuộc rất nặng nề vào sản xuất tự cung, tự cấp dựa vào nông nghiệp sinh kế của họ. Một yếu tố quan trọng cho việc cho gia tăng phúc lợi cho người dân nông thôn ở Lào đặc biệt là cho nông dân sản xuất nhỏ, là gia tăng lợi nhuận trong sản xuất. Một giải pháp khả thi trong việc gia tăng lợi nhuận cho nông dân Lào là dịch chuyển từ sản xuất thông thường sang sản xuất hữu cơ định hướng xuất khẩu, bởi vì thị trường quốc tế cho lúa gạo hữu cơ đang phát triển, người tiêu thụ hữu cơ sẵn sàng mua sản phẩm có giá trị ưu đãi hơn sản phẩm thông thường và các điều kiện cho sản xuất lúa hữu cơ là khá thuận lợi ở Lào. Sản xuất lúa hữu cơ ở Lào đã phát triển trong thập kỹ qua khi có một số lượng sản phẩm lúa hữu cơ khá lớn sản xuất và xuất khẩu. Lúa hữu cơ chủ yếu sản xuất bởi nông hộ sản xuất nhỏ trong các dự án tài trợ hoặc nông dân hợp đồng cung cấp cho các công ty nông nghiệp.

22

Hình 2: Nhằm giúp cho nông dân tham gia dự án sản xuất lúa hữu cơ cơ thu nhập cao, doanh nghiệp cần chọn giống lúa phù họp vùng dự án, đáp ưng đầy đủ chất lượng và số lượng theo nhu cầu thị trường.

Hiện nay ở ĐBSCL, vùng lúa-tôm các dự án sản xuất lúa hữu cơ thường áp dụng giống lúa có chất lượng ngon nhất, nhì thế giới như ST 24, ST 25.

Trong hinh là giống lúa ST 24 đựợc nông dân sản xuất trong mô hình liên kết sản xuất lúa hữu cơ tại huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh năm 2020.

Sa Kennvidy (2011) nhấn mạnh rằng canh tác hữu cơ là một hệ thống quan trọng của nông nghiệp và sản xuất lương thực, đó là gìn giữ môi trường bền vững và có thể tạo ra nhiều tác động tích cực đối với cộng đồng nông thôn. Sự phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Cambodia đang ở giai đoạn bắt đầu. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định nhận thức của nông dân về trồng lúa hữu cơ và phân tích hiệu quả kinh tế của hệ thống. Thu thập dữ liệu đã được tiến hành thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn, hai loại bảng câu hỏi và quan sát cá nhân trong khi thống kê mô tả và suy luận được phân tích với việc sử dụng các phần mềm thống kê cho ngành khoa học xã hội hoặc phần mềm SPSS. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy đa số nông dân chuyển đổi sang canh tác hữu cơ bởi vì giá bán cao với sản phẩm hữu cơ và thu nhập của họ được gia tăng 15 % so với canh tác thông thường. Thích ứng với trồng lúa hữu cơ có thể làm tăng năng suất lúa lên 5 % từ 2,46 lên 2,59 tấn mỗi ha. Chênh lệch gia tăng sản lượng lúa tương đương với 21 %. Hơn nữa, hệ thống canh tác hữu cơ có thể được ổn định hơn từ việc phân tích hiệu quả kinh tế cao hơn so với hệ thống canh tác thông thường.

Thomas Marmefelt, (2011) cũng nghiên cứu nguyên nhân đằng sau việc chuyển đổi cấu trúc này bằng cách kết hợp các lý thuyết kinh tế tiến hóa bởi các nhà lý thuyết như Schumpeter, (1911); Dahmén, (1950) và Marmefelt, (1998); trong đó tập trung vào đổi mới doanh nghiệp và các ngân hàng cho vay làm cơ sở cho những thay đổi trong nền kinh tế. Bằng cách thực hiện một phân tích chuyển đổi từ mô hình của Dahménian của quá trình chuyển đổi từ mô hình thông thường – sang sản xuất lúa hữu cơ trong khối phát triển xung quanh sản xuất lúa tại Lào, để xác định áp lực gây nên sự chuyển đổi diễn ra. Nhấn mạnh đặc biệt cho vai trò của nông nghiệp hợp đồng (contract farming) trong quá trình này. Các phân tích cho thấy hai loại áp lực chuyển đổi rất có thể đã làm cho nông dân chuyển đổi sản xuất hữu cơ. Trước hết nó có khả năng là mức giá tương đối cao hơn trả cho lúa hữu cơ (cao hơn so với lúa thông thường là 42 phần trăm) đã thuyết phục nông dân trong quá trình chuyển đổi. Đây là loại áp lực chuyển đổi có thể được xem như thị trường lôi kéo, vì nó bắt nguồn từ một nhu cầu tăng tại các thị trường quốc tế, do đó làm tăng giá tương đối cho sản phẩm. Điều này đã dẫn đến năng suất tăng lên, kết hợp với giá cao, tạo ra lợi nhuận cao hơn cho nông dân hợp đồng hữu cơ. Việc đổi mới phương pháp sản xuất có thể được xem như một loại thị trường đẩy áp lực chuyển đổi nguồn gốc từ phía cung.

Trong bài báo, tác giả cho rằng nó không chắc rằng việc chuyển đổi sẽ xảy ra nếu không có sự tham gia của các công ty nông nghiệp hợp đồng. Ngay chính riêng mình, người nông dân đã không có phương tiện để phát triển lúa gạo hữu cơ, cũng không phải là kênh thị trường thích hợp để chế biến và bán gạo hữu cơ trên thị trường quốc tế. Tác giả lập luận rằng khả năng nuôi công ty của hợp đồng để tạo điều kiện thông tin tín hiệu giá từ thị trường quốc tế cho nông dân, cung cấp quyền truy cập vào các thị trường mới thông qua các liên kết thị trường và cung cấp các khoản tín dụng cho đầu vào mới cũng như hỗ trợ kỹ thuật về cơ bản chuyển sang làm lúa hữu cơ.

Tuy nhiên các phân tích cũng cho thấy rằng các công ty nông nghiệp hợp đồng bị hạn chế khả năng để thực hiện đầy đủ vai trò của nó như là một điều phối viên trong những tiến bộ của sản xuất lúa hữu cơ, trong điều khoản của một ngân hàng, vì khả năng hạn chế để giải quyết vướng mắc trong chuỗi giá trị. Lý do cho điều này chủ yếu là giới hạn nguồn lực tài chính để tài trợ cho các khoản đầu tư bổ sung vào các bộ phận khác cùng khối phát triển.

3132

Hình 3: Ngoài gióng lúa có chất lượng gạo ngon nhất nhì thế giới được trồng ở vùng lúa-tôm, các dự án lúa hữu cơ còn nhu cầu các giống lúa Japonica , gạo tròn , cơm dểo, chất lượng thơm ngon phục vụ cho các thị trường nhu cầu như Nhật Bản, các nước Châu Á và các nước khác.

Hinh giới thiệu mô hình lúa hữu cơ liên kết sản xuất gióng lúa Nhật DS 1 tại huyện Tri Tôn, An Giang năm 2020-2021.

Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang

 

Sản xuất hữu cơ là cách tốt nhất tránh nhiễm độc thực phẩm và nâng cao giá trị hàng xuất khẩu

Những nghiên cứu về nhiễm độc hóa chất trong nông sản đã cho thấy người tiêu thụ có thể đang bị chết dần chết mòn bởi những nông sản tưởng chừng như đang nuôi sống chúng ta mỗi ngày. Thậm chí, thương hiệu nông sản quốc gia bị đánh giá thấp trên trường quốc tế do nhiễm độc hóa chất bị trả về.

Hàng triệu người dân Việt Nam chắc hẳn đã nghe qua cụm từ “Vệ sinh an toàn thực phẩm”, nhưng có mấy ai tìm hiểu sâu và rộng về nguồn gốc, nguyên nhân của vấn đề này? “Vệ sinh an toàn thực phẩm” không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất chế biến, mà nó là cả một quy trình từ đồng ruộng, nguyên liệu đầu vào, đất, nước,... Để kiểm soát được vấn đề này chúng ta cần phải có thước đo kiểm soát, giới hạn ngưỡng gây nguy hiểm cho con người. Những vấn đề này hiện rất đễ xẩy ra trong các kiểu sản xuất mà chỉ hô hào là sạch, an toàn hay thậm chí GAP, bởi vì trong quy trình sản xuất này vẫn còn cho phép sử dụng một số hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV). Trong khi, sản xuất hữu cơ, thuốc BVTV hóa học hoàn toàn không được phép sử dụng.

Nghiên cứu về an toàn thực phẩm gần đây cho thấy rằng, bình quân mỗi người Việt tiêu thụ 0,9-1kg thuốc BVTV/năm (theo báo Nongnghiep.vn, 18/6/2022). Thuốc BVTV được sử dụng tại miền Bắc Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1955, thuốc hóa học nhanh chóng dập tắt dịch sâu bệnh hại. Trải qua gần 80 năm, Việt Nam có khoảng 200 doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh thuốc BVTV, khoảng 100 nhà máy sản xuất thuốc BVTV và hơn 30 ngàn đại lý buôn bán thuốc BVTV; Tính theo trọng lượng để so sánh thì Trung Quốc tiêu thụ 1,2 kg thuốc BVTV/người/năm còn Việt Nam là 0,9 kg/người/năm; Người ta ước tính rằng mỗi năm có khoảng 69.238 kg và 43.574 lít thuốc trừ sâu và 69.640 kg gói hóa chất được đưa vào môi trường sống mà không được xử lý thích hợp. Thị trường thuốc BVTV ngày càng mở rộng, trong khi công tác quản lý, thanh tra không kịp ứng phó, kiểm tra theo dõi, hàng hóa trôi nổi, nhãn mác trá hình, hoạt chất cấm độc hại len lỏi âm ỉ trong nông dân. (theo báo Nongnghiep.vn, 18/6/2022)

Hình 1. Vỏ bao thuốc BVTV vứt bừa bãi ở một vùng trồng rau (theo báo Nongnghiep.vn, 18/6/2022)

Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường đã thực hiện một nghiên cứu trên 243 người ở vùng có nguy cơ cao tại Hà Nam (2020) và kết quả cho thấy : gần 85% người nông dân tiếp xúc với thuốc bảo thực vật có lượng tồn dư trong máu khá cao, cần phải đi làm tiếp các xét nghiệm. Một cuộc xét nghiệm nhanh với 67 người tại Hà Nội cũng cho thấy 1 nửa số này bị phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật. Con người tiếp xúc trực tiếp với thuốc BVTV thông qua hoạt động nghề nghiệp, nông nghiệp, công việc nhà hoặc không trực tiếp thông qua thực phẩm. Da, miệng, mắt, thở là bốn con đường phổ biến mà thuốc BVTV có thể xâm nhập vào cơ thể con người. Sự phơi nhiễm liên tục với thuốc trừ sâu đã dẫn đến nhiều loại bệnh khác nhau trên con người bao gồm khả năng gây ung thư, gây độc cho hệ thần kinh, khả năng sinh sản, trao đổi chất và phát triển của con người. Trong đó, tiếp xúc với da là con đường bị nhiễm nhanh và phổ biến khi con người tiếp xúc với thuốc BVTV. (TS. Hứa Quốc Trung, 2020)

Hình 2. Gạo Việt xuất khẩu ồ ạt bị trả về vì "dính độc", (nguồn: Gạo 'dính độc' bị trả về: Xứ người chê thì xứ ta xài?; https.vietnamnet.vn, truy cập 24/6/2022)

Thông tin từ Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về Vệ sinh Dịch tễ và Kiểm dịch Động thực vật (SPS) Việt Nam, Bộ NN-PTNT, cho biết 1 lô hàng gạo thơm cao cấp giống ST25, nhãn hiệu Nữ hoàng, xuất khẩu vào Bỉ đã phải thu hồi sản phẩm, khuyến cáo người dân không sử dụng khi phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép, cụ thể là chất Tricyclazole - một hoạt chất được sử dụng rộng rãi làm thuốc trừ sâu trong ngành trồng lúa gạo (thanhnien.vn, 2021). Sự kiện này đã có bài báo nêu câu hỏi chua cay: Gạo “dính độc” bị trả về: Xứ người chê thì xứ ta xài? (vietnamnet.vn, truy cập 24/6/2022).

3.1

Hình 3. Một lô gạo thơm giống ST25 bị thu hồi tại Bỉ (baophunu, 2021)

Hiện trạng đáng buồn cho người dân Việt Nam, chúng ta đang đưa những hóa chất độc hại từ nguồn thực phẩm bẩn vào cơ thể của chúng ta và gia đình mỗi ngày một cách vô thức; Đã có ai thực sự nhận ra chưa? Nếu như đã nhận ra tại sao vẫn chấp nhận những sản phẩm nông nghiệp kém chất lượng? Tại sao chúng ta không sử dụng hoặc ủng hộ các sản phẩm Hữu cơ, an toàn cho con người và cả môi trường?. Những năm qua, bao nhiêu lần các sản phẩm nông sản của chúng ta bị trả về khi xuất khẩu do tồn dư thuốc BVTV, cụ thể gần đây là Gạo ST25 xuất sang Bỉ (nongnghiep.vn, 2022) bị trả về, rồi chúng sau khi bị trả về sẽ đi đâu. Chắc chắn là sử dụng cho tiêu dùng trong nước hoặc xuất sang Trung Quốc. Rất nhiều những bằng chứng, bài học, thất thoát, mất mát sâu sắc, thế nhưng chúng ta dường như chưa thật sự rút ra được bài học cho chính mình. Sự dễ dãi, vô tâm của chúng ta chính là những kẻ hở để những sản phẩm kém chất lượng len lỏi hàng ngày trong mỗi bữa ăn gia đình.

Hình 4. Theo Bộ Công Thương, các cơ quan kiểm dịch tại EU đều đã được thông báo và sẽ nâng các biện pháp kiểm dịch đối với dòng hàng hóa liên quan nhập khẩu từ Việt Nam (nguồn: nongnghiep.vn,2022)

Trên thế giới, xu hướng sử dụng các sản phẩm đạt chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn hữu cơ của Mỹ (USDA), Châu Âu (EU), Nhật (JAS), Úc…  ngày càng tăng. Các sản phẩm này được sản xuất đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình được đặt ra, sau đó được các tổ chức có thẩm quyền thông qua đánh giá và cấp chứng nhận thì mới được đưa ra thị trường. Các sản phẩm này đảm bảo không gây hại cho con người, cụ thể nói không 100% với tồn dư thuốc bảo vệ thực vật hóa học, kháng sinh, và chất biên đổi gen (GMO)… Đối với nước ta, việc sản xuất theo hữu cơ cơ chứng nhận như mới chỉ bắt đầu nhưng đã được một số tỉnh khuyến khích và đầu tư phát triển. Chúng ta hy vọng bước đột phá này sẽ lan nhanh từ các tỉnh như Sóc Trăng, Kon Tum, An Giang…

Hãy thay đổi tư duy, nhận thức ngay hôm nay, bằng việc khuyến khích sản xuất và sử dụng nguồn thực phẩm Hữu cơ trong gia đình, siết chặt hơn vấn đề sản xuất nông nghiệp an toàn, bền vững. Để thay đổi nhận thức và tập quán canh tác lâu đời của sản xuất thực sự là một quá trình cực kì khó khăn và gian nan. Cần sự quan tâm thực hiện, đầu tư, khuyến khích, hỗ trợ, cải tạo, xây dựng từ nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước. Phải quyết tâm bền bi, đồng sức đồng lòng mới có thể thực hiện được.

Hình 4. Các mô hình liên kết sản xuất hữu cơ đã hình thành và phát triển, cần quan tâm nhân rộng ra nhièu địa phương, nhiều cây, con…HTX tiêu hữu cơ Linh Nham, tỉnh Gia Lai là một điển hình (nguồn: Viện AOI).

Viện AOI chuyên nghiên cứu và phát triển Nông nghiệp Hữu cơ, nắm rõ quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn Quốc tế USDA, EU, JAS, Việt Nam… đã hỗ trợ nhiều HTX tại Việt Nam xây dựng các mô hình hữu cơ đạt chứng nhận như: HTX Linh Nham (sản phẩm tiêu, cà phê hữu cơ), HTX Tiến Đạt (Gạo Hữu cơ),… hợp tác cùng hàng chục Doanh nghiệp xây dựng thành công mô hình sản xuất lúa hữu cơ có chứng nhận quốc tế và kết nối đưa sản phẩm của các Doanh nghiệp xuất khẩu ra thế giới. Sứ mệnh lớn nhất của Viện AOI là không ngừng lan tỏa, phát triển Nông nghiệp Hữu cơ đến khắp mọi nơi. Trong quá trình đó, chúng tôi rất cần sự cộng tác, thấu hiều từ các cấp nhà nước, sự đồng lòng cộng tác của doanh nghiệp và bà con nông dân để cùng nhau thực hiện được sứ mệnh này. Chúng tôi luôn tin tưởng vào nền Nông nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ tiến bộ hơn, sản xuất hữu cơ ngày một nhiều hơn; vì chỉ có sản xuất hữu cơ chúng ta mới có thể đảm bảo tốt nhất cho phát triển bền vững.

Nhóm Admin Viện AOI

Tài liệu tham khảo:

https://nongnghiep.vn/khung-khiep-binh-quan-moi-nguoi-viet-tieu-thu-09-1kg-thuoc-bvtvnam-d223506.html

https://vtv.vn/vtv8/tieu-diem-phong-tranh-phoi-nhiem-thuoc-bao-ve-thuc-vat-20180803065359.htm

https://sokhcn.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm%3Apath%3A/sokhvcnlibrary/siteofkhohocvacongnghe/tintucsukien/hoatdongcuaso/thuocbvthucvatanhhuongsuckhoe

https://thanhnien.vn/thu-hoi-lo-gao-st25-tai-bi-co-du-luong-thuoc-tru-sau-vuot-nguong-post1393168.html

https://nongnghiep.vn/lo-gao-st25-xuat-eu-co-du-luong-hoa-chat-vuot-nguong-cho-phep-d305595.html

https://thanhnien.vn/thu-hoi-lo-gao-st25-tai-bi-co-du-luong-thuoc-tru-sau-vuot-nguong-post1393168.html#:~:text=Th%C3%B4ng%20tin%20t%E1%BB%AB%20V%C4%83n%20ph%C3%B2ng,l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20thu%E1%BB%91c%20b%E1%BA%A3o%20v%E1%BB%87%20th%E1%BB%B1c

https://www.phunuonline.com.vn/lo-gao-st25-tu-viet-nam-bi-thu-hoi-o-chau-au-vi-hoa-chat-ton-du-a1448862.html

CÁC DOANH NGHIỆP Ở AN GIANG ĐẦU TƯ HỖ TRỢ LIÊN KẾT SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA GẠO BỀN VỮNG VÀ HỮU CƠ

 

      Trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường bình đẳng giới và đầu tư kinh doanh nông nghiệp có trách nhiệm ở Đông Nam Á, (Graisea 2.0)”, thuộc tổ chức Oxfam đã tổ chức tham quan mô hình liên kết, sản xuất, chế biến lúa hữu cơ tại Công ty TNHH MTV Trịnh Văn Phú, ngày 7/6/2022.  Hoạt động diền ra thành công tốt đẹp với sự có mặt của đại diện Trung tâm Kỹ thuật Dịch vụ Nông nghiệp An Giang, đại diện các cơ quan như dự án Graisea 2, Viện Chính sách Nông nghiệp, Viện AOI và các HTX trong tỉnh An Giang và Công ty Trịnh Văn Phú.

     Trong buổi sáng, các đại biểu tập trung đông đủ tại nhà máy của công ty. Tại đây, Ông Lâm Thành Kiêt đại diện công ty đã chia sẻ thông tin phấn khởi về dự án đầu tư nhà máy với công suất lớn, kho dự trữ lương thực đảm bảo an ninh lương thực thuộc DA của chính phủ. Công ty quan tâm đầu tư xây dựng mô hình liên kết với nông dân sản xuất lúa hữu cơ trên nhiều tỉnh ĐBSCL. Về giá cả, đảm bảo mua giá cao khi bà con nông dân tham gia mô hình đạt chứng nhận hữu cơ quốc tế (EU, USDA, JAS, Úc…). Ngoài ra, khi tham gia mô hình sản xuất theo hữu cơ, bà con vẫn được đảm bảo trợ giá trong thời gian xây dựng mô hình. Doanh nghiệp cũng được các Tổ chức quản lý các cấp khuyến khích và hỗ trợ bà con nông dân cải tạo đất hướng đến sản xuất hữu cơ, mang đến một giá trị hoàn toàn mới cho nông sàn, đó là tạo ra “SẢN PHẨM HỮU CƠ”. Khi thực hiện được điều đó, thì Nông nghiệp Việt Nam mới thực sự tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường Quốc tế

f4261d831cd3df8d86c2eb6ab111b041731f2a50d5110cb40de4ceba97f5ad9c6ce76db7aee9f7a6

Hình 1,2,3,4. Đại diện Viện AOI trao đổi với đại biểu dự Hội thảo và cùng các Đại biểu tham quan tại CTY Trịnh Văn Phú.

      Hội thảo ký kết mô hình hợp tác công tư (PPC) tại An Giang.

      Hội thảo diền ra vào đầu giờ chiều ngày 7/6/2022, với sự có mặt của đại diện Sở nông nghiệp An Giang, nhiều Doanh nghiệp xuất nhập khẩu, HTX trong và ngoài tỉnh. Hội thảo tập trung trình bày những hiệu quả, những đóng góp mà Dự án Graisea đã thực hiện trước đó, xây dựng nhiều mô hình bền vững và đạt chuẩn hữu cơ, tạo công ăn việc làm cho bà con nông dân, nâng cao vai trò của Hội phụ nữ, tạo sự bình đẳng trong sản xuất kinh doanh. Những hoạt động DA thực hiện được hết sức ý nghĩa, góp phần nâng cao vai trò liên kết trong sản xuất bền vững và hữu cơ.

     Qua hội thảo, các Doanh nghiệp đã có những giải đáp thắc mắc một cách sâu sắc, thân tình với các bên loeen quan, các HTX và nông dân. Những nỗi trăn trở khó khăn trong liên kết của các bên, từ đó có tiếng nói chung, cùng nhau xây dựng mối liên kết bền vững, không phải chỉ 1 vụ, 1 năm, mà là bền vững về lâu dài.

     Như là những người bạn đường, luôn luôn đồng hành với người sản xuất và Doanh nghiệp trong suốt quá trình sản xuất đến xây dựng sản phẩm đạt chứng nhận. Chúng tôi luôn hy vọng ngày càng có thêm các sản phẩm hữu cơ mang tên Việt Nam sẽ được chấp nhận khắp thế giới và đặc biệt là giá trị cốt lõi mà các sản phẩm hữu cơ mang lại đó là “Hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường”.

 9097a314a244611a385510511cdf1d8fded1879e

Hình 5,6. Hội thảo ký kết mô hình hợp tác công tư (PPC) tại An Giang

     Xin chân thành cảm ơn Tổ chức Oxfarm và Trung tâm KTDV Nông nghiệp An Giang đã tổ chức một buổi Hội thảo thành công tốt đẹp.

Nhóm Admin Viện AOI

Tiến độ xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại HTX Vinh lợi, xã Vĩnh Lợi, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng

Theo chương trình hợp tác giữa Mekong Organics, Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Nông thôn thuộc Đại học An Giang, Viện Hữu cơ Á Châu (AOI), Dự án G2 (Oxfam) với Phòng NN&PTNT huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức xây dựng mô hình sản xuất và thương mại lúa gạo hữu cơ, liên kết giữa công ty Lương thực Hồng Tân với HTX Vinh Lợi, xã Vĩnh Lợi huyện Thạnh trị, tỉnh Sóc Trăng. Mô hình được sự tài trợ từ dự án Đồng bằng Sống (Living Delta Hub), do Quĩ Nghiên cứu Thách thức Toàn cầu GCFR UK tài trợ.

6ad379721d9cd1c2888d

Hình 1. Bản đồ huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng
(Nguồn: https://thanhtri.soctrang.gov.vn/)

Thạnh Trị là một huyện vùng ngọt thuộc tỉnh Sóc Trăng, địa hình huyện Thạnh Trị bằng phẳng, bị chia cắt nhiều bởi hệ thống kênh, rạch, nên kinh tế ở đây  sản xuất nông nghiệp là chính, chủ yếu là trồng lúa chuyên canh, màu, chăn nuôi và thủy sản nước ngọt. Dự án qua quá trình khảo sát, đã chọn HTX Vinh Lợi, là một HTX trẻ đi lên từ THT có nhiều thành viên trẻ năng động và tích cực sản xuất theo hướng bền vững , hợp tác, liên kết và đi từ mô hình nhỏ phát triển dần dần chuyển đổi từ sản xuất an toàn theo hướng hữu cơ sang sản xuất hoàn toàn hữu cơ có chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế cho doanh nghiệp liên kết là công ty Luong thực Hồng Tân xuất khẩu. Đi từ sản xuất lúa đến rau màu luân canh với lúa hữu cơ.

Ngày 17/1/2022, buổi tập huấn với chủ đề:” Các vấn đề cần biết trong sản xuất lúa hữu cơ” diễn ra tại HTX Vinh Lợi, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, tham gia buổi tập huấn có các nông dân trong HTX, bước đầu xây dựng sự quan tâm và hiểu biết về nông nghiệp hữu cơ cho nông dân, hướng dẫn quy trình, chuyển giao kĩ thuật, cũng như tư vấn về nguồn nguyên liệu đầu vào, phòng tránh sâu bệnh hại… Mô hình rất được sự ủng hộ của địa phương, đặc biệt là Phòng NN&PTNT huyện Thạnh Trị, cũng như sự tham gia nhiệt tình của bà con nông dân. Các buổi tập huấn và tọa đàm xây dựng mối liên kết, thỏa thuận hợp đồng thu mua, cung cấp đầu vào…đều diễn ra thuận lợi và có sự đồng thuận cao, có sự chứng kiến của các Bên trong chuỗi liên kết của mô hình.

79a06afffc11304f69009a863bdaad34616a3825 

Hình 1,2 Viện AOI tập huấn cho bà con nông dân tại HTX Vinh Lợi

Thơi gian đầu triển khai mô hình, nhóm chuyên gia Viện AOI tiến hành lấy mẫu đất và nước để kiểm tra đánh giá. Viện AOI luôn cử cán bộ theo sát nông dân trong quá trình sản xuất, nhằm hướng dẫn nông dân luôn tuân thủ quy trình canh tác hữu cơ. Việc kiểm tra hiện tại đáng lo ngại rủi ro các hoạt chất hóa học lưu tồn lâu (như tricylazole) ở các vụ trước khi thực hiện hữu cơ.

7812e0d76d39a167f828

Hình 3.  Cán bộ Dự án lấy mẫu đất, nước kiểm tra đánh giá

Hoạt động đánh giá sơ kết mô hình

Sau Tết Nguyên Đán tại huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng (ngày 10/2/2022), Viện AOI đã có buổi gặp gỡ cùng đại diện phòng Nông nghiệp huyện Thạnh Trị, đại diện tổ chức Mekong Organic, Oxfarm, Doanh nghiệp Hồng Tân và HTX Vinh Lợi, các bên đã có buổi sơ kết việc xây dựng mô hình liên kết sản xuất và thương mại lúa gạo hữu cơ thuộc dự án Đồng bằng Sống (Living Delta Hub), do Quĩ Nghiên cứu Thách thức Toàn cầu GCFR UK tài trợ. Các bên đã thống nhất kế hoạch xây dựng mô hình lúa hữu cơ 30 ha với quyết tâm cao; Xây dựng kế hoạch chuẩn bị cho việc đánh giá chứng nhận lúa hữu cơ và tiếp theo đó là xây dựng mô hình đậu nành luân canh với lúa hữu cơ. Sau cùng, các bên tham gia buổi liên hoan chúc mừng một năm mới thật nhiều thành công; thắt chặt mối liên kết chặt chẽ, cùng nhau đồng hành thực hiện Nông nghiệp Hữu cơ bền vững.

d443d9ba98a754f90db6ea4c911907f7cba992e6

Hình 4,5. Gặp gỡ đầu năm và thăm quan mô hình lúa hữu cơ của HTX Vinh Lợi, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng

Ngày 20/2/2022 tới đây, theo kế hoạch Viện AOI tiếp tục hoạy động tập huấn đợt 2, nhằm mục đích tăng cường nhận thức và nhắc nhở nông dân thay đổi tập quán sản xuất loại bỏ tập quán cũ, không tuân thủ quy trình, làm ảnh hưỏng đến chất lượng sản phẩm… Nông dân tiếp tục đồng hành với HTX trong thời gian thu hoạch sắp tới. 

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác, hỗ trợ từ tổ chức Mekong Organics, Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Nông thôn thuộc Đại học An Giang, Viện NC&PT NN Hữu cơ Á Châu (AOI), Dự án G2 (Oxfam) và Phòng NN&PTNT huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng. Chúc Dự án trong năm 2022 thành công tốt đẹp, góp phần xây dựng nền nông nghiệp hữu cơ phát triển trong nước cũng như lan rộng ra toàn thế giới. 

Nhóm admin Viện AOI

 

XÂY DỰNG “ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ GIAI ĐOẠN 2022-2025 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN 2030” TẠI TỈNH SÓC TRĂNG

Ngày 10/2/2022 (nhằm mùng 10 tháng Giêng), Viện AOI đã tham gia báo cáo trước Hội đồng thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng “ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ GIAI ĐOẠN 2022-2025 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN 2030”; Hội đồng đánh giá, phản biện gồm:  Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, các Phó chủ tích Ủy ban Nhân dân tỉnh và các ban ngành liên quan như Sở NN&PTNT, Sở Công Thương, Sở KH&CN…Sự kiện này cho thấy sự quan tâm và tiên phong của tỉnh Sóc Trăng đi đầu thực hiện các chiến lược phát triển nông nghiệp hữu cơ.

027cdbaad0971cc94586

Đề án phối hợp xây dựng bởi Viện AOI, Chi cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm và Thủy sản tinh, Sở NN&PTNT. Nhóm tham gia xây dựng Đề án và trình bày báo cáo phía Viện AOI gồm có TS. Nguyễn Công Thành Viện trưởng Viện AOI và nhóm chuyên gia của Viện. Buổi báo cáo đã diễn ra khá tốt đẹp, gồm các nội dung sau:


- Triển khai tuyên truyền, tổ chức và điều phối Đề án;
- Nâng cao năng lực các tác nhân tham gia;
- Hỗ trợ hoạt động tư vấn thực hiện Đề án;
- Thực hiện các mô hình sản xuất hữu cơ, và
- Quảng bá, kết nối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm hữu cơ.

  • Xây dựng các mô hình Nông nghiệp Hữu cơ giai đoạn 2022-2025, bước đầu xây dựng 5 nhóm mô hình bao gồm 32 mô hình trên 11 huyện, thị xã, thành phố tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên và vùng sinh thái địa phương (vùng nhiễm mặn, vùng ngọt và vùng lợ) . Bước đầu hướng đến xây dựng các mô hình đạt các tiêu chuẩn hữu cơ Quốc tế, Khu vực và Việt Nam.
  • Định hướng đến 2030, Diện tích đất trồng trọt hữu cơ đạt trên 2.000 ha chiếm 1% tổng diện tích đất trồng trọt với các cây trồng chủ lực như lúa, cây ăn trái, hành tím và  một số loại màu, rau củ,... Xây dựng vùng trồng trọt hữu cơ cho hành tím, cây có múi.

Sản xuất hữu cơ có chứng nhận phát triển nhân rộng về diện tích và được áp dụng trên nhiều loại cây trồng, vật nuôi khác. Trong đó, mũi nhọn là hành tím và cây có múi, bên cạnh chú trọng phát triển cây trồng phục vụ chăn nuôi hữu cơ như bắp, đậu nành…

Giá trị sản phẩm trên 01 ha đất trồng trọt hữu cơ có chứng nhận cao gấp 1,5 -1,8 lần so với sản xuất phi hữu cơ.

Diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt trên diện tích lúa hữu cơ đều có chứng nhận hữu cơ: tôm càng xanh, một số loài thủy sản bản địa.

Chăn nuôi bò thịt hữu cơ, gia cầm thả vườn hữu cơ đạt chứng nhận trên nhiều huyện thị xã của tỉnh Sóc Trăng…

9cac578554b898e6c1a9

 Hình 2. Báo cáo Đề án của Viện AOI tại Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng

Báo cáo Đề án của Viện AOI nhận được sự thảo luận và đóng góp của Hội đồng, đặc biệt sự góp ý của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, các Phó Chủ tịch Ủy ban và các ban ngành liên quan. Viện AOI ghi nhận những ý kiến đóng góp, sớm bổ sung, hoàn thiện Đề án để trình ra Hội đồng Nhân sân tỉnh Sóc Trăng thông qua kế hoạch thực hiện.
Nhóm nghiên cứu thuộc Viện AOI luôn nỗ lực để phù hợp với những mong muốn đóng góp ý kiến của tỉnh nhà; Vì một mục tiêu chung “Nỗ lực vì sức khỏe cộng đồng và phát triển Bền vững”.

Nhóm Admin Viện AOI

VIỆN AOI THAM GIA XÂY DỰNG MÔ HÌNH LÚA HỮU CƠ VÙNG CHUYÊN CANH TẠI TỈNH AN GIANG 

 

      Trong khuôn khổ ĐT 4H do Sở KH&CN tỉnh An Giang tài trợ, nhóm chuyên gia Viện AOI đang nỗ lực xậy dựng mô hình lúa hữu cơ trên vùng chuyên canh 2-3 vụ/năm. Những ngày cuối năm, giáp Tết bận rộn, nhưng nhóm thực hiện ĐT và nông dân liên kết vẫn dành thời gian làm việc nhiệt tình với nhóm công tác thăm mô hình 2 cánh đồng lớn với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ: 

  1. Hoạt động tại HTX Thành Công

Nhóm thực hiện ĐT đã đi thăm cánh đồng lúa HTX Thành Công lần thứ hai sau khi xuống giống. Lúa hiện bị ảnh hưởng của phèn nên cây lúa chưa thực sự phát triển tốt. Nông dân hiện đang thực hiện bơm nước rửa phèn, chăm sóc thường xuyên, sau bón phân đợt 1 cánh đồng sẽ cải thiện. Viện AOI sẽ tiếp tục theo dõi đồng hành với HTX trong thời gian sắp tới, và hướng dẫn kỹ thuật thuòng xuyên để bà con nông dân yên sản xuất theo mô hình.

z3156402588941 73e87c9c9cc4de4aadfab3c1e1ca53e4

Hình 1,2. Viện AOI làm việc với HTX Thành Công và thăm cánh đồng lúa lần 2 (27/01/2022)

  1. Hoạt động tại THT Tà Đảnh, huyện Tri Tôn

Cũng trong ngày 27/1/2022, Viện AOI đã tổ chức thăm cánh đồng lúa của một Tổ hợp tác (THT) sản xuất mô hình tại Rừng Tràm Tà Đảnh, thuộc HTX Thành Công, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, THT đã tham gia dự án, xây dựng mô hình cánh đồng lớn, sản xuất theo hướng hữu cơ, với giống DS1, diện tích hơn 80ha (trong đó có 70 ha liền canh). Các thành viên THT đã có niềm đam mê, sản xuất theo quy trình Hữu cơ với ý thức góp phần bảo vệ môi trường sống và cung cấp nông sản sạch cho xã hội. Vì vậy, các anh trong THT đã tự nguyện gắn bó, nỗ lực thực hiện mô hình. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng cần có ở những người nông dân tiên tiến để đi đầu trong việc tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng bền vừng, hữu cơ. Những nông dân trẻ, tiến bộ này là sự mong muốn cho các dự án và hứa hẹn thành công khi có sự tham gia của các họ và triển vọng nhân rộng mô hình ra các vùng canh tác tương tự tại địa phương.

z3156402748336 b88e1644b1cb90fc232162774f4cc930

Hình 3,4. Thảo luận quy trình canh tác liên kết và thăm mô hình cánh đòng lớn thứ hai tại Rừng Tràm Tà Đảnh, xã Tà Đảnh, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (Sáng 27/01/2022)

  1. Hoạt động ti HTX Lương An Trà

      Nối tiếp hoạt động đã thảo luận với các HTX và Uỷ ban nhân dân xã Lương An Trà ngày 12/01/2022, chiều ngày 27/1/2022 Viện AOI đã có chuyến tham quan cánh đồng lúa của HTX Lương An Trà, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, An Giang. Chuyến thăm nhằm bàn kế hoạch hợp tác, liên kết nhân rộng mô hình cánh đòng lớn sản xuất lúa hữu cơ trong vụ Hè Thu năm 2022. Hiện tại, vụ Đông Xuân năm 2021-2022, đề tài 4H đã xây dựng 2 mô hình cánh đồng lớn tại hai xã Tân Tuyến (58 ha và Tà Đảnh (80 ha), đều thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang theo yêu cầu của đề tài. Đối với HTX Lương An Trà đã tham gia mô hình chuyển đổi theo hướng canh tác hữu cơ 3 từ năm qua. Do đó, hiện tại, HTX có điều kiện chuyển sang liên kết canh tác lúa hữu cơ hoàn toàn và có thể chứng nhận đạt các tiêu chuẩn quốc tế. Nhóm chuyên gia đã thu thập mẫu đất , mẫu lúa để tái kiểm tra và chuẩn bị thực hiện canh tác theo Quy trình hoàn toàn hữu cơ trong vụ Hè Thu năm 2022 tới.

z3156402748335 21efd4adcd463d97bc7cfb0d45b0f5cb

Hình 5,6. Thăm cánh đồng Lúa chuyên canh, chuẩn bị cảnh tác Hữu cơ của HTX Lương An Trà, xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

 VIỆN AOI THAM GIA XÂY DỰNG HÌNH LÚA HỮU VÙNG CHUYÊN CANH TẠI TỈNH AN GIANG TRONG KHUÔN KHỔ ĐỀ TÀI 4H 
 
Hoạt động tại HTX Thành Công
 
      Trong khuôn khổ ĐT 4H do Sở KH&CN tỉnh An Giang tài trợ, nhóm chuyên gia Viện AOI đang nỗ lực xậy dựng mô hình lúa hữu cơ trên vùng chuyên canh 2-3 vụ/năm. Sáng 12/1/2022, Sở Khoa học và Công nghệ An Giang đã có cuộc tham quan và đánh giá mô hình tại HTX Thành Công đang thực hiện mô hình này tại huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. 
 
 
IMG 20220116 093704IMG 20220116 093517
Hình 1,2. Gặp gỡ giữa các bên tại HTX Thành Công
 
Các bên đã tham gia khảo sát mô hình thực tế trên cánh đồng lớn liên kết “bốn nhà” (Sở KHCN An Giang, Viện AOI, Trung tâm KTDV Nông nghiệp An Giang, Công ty liên kết và HTX Thành Công). HTX Thành Công thực hiện canh tác giống lúa DS1 phù hợp với điều kiện tự nhiên (đất phèn khảo sat ngay tại thời điểm tham quan với pH đất 4, pH nước 5). HTX đầu tư cơ sở vật chất như máy sạ hàng theo khóm có chiều dài 6m do HTX tự sáng chế, máy bơm nước điều chỉnh được lượng nước, máy san đất cho bằng phẳng... .Kết quả nhận thấy bước đầu HTX Thành Công đã thực hiện tuân thủ tốt quy trình canh tác hữu cơ do ĐT yêu cầu. 
 
Hoạt động hợp tác với Công ty TNHH MTV Trịnh Văn Phú
 
       Hướng tới sự hợp tác hiện tại và tương lai, thực hiện Dự án xây dựng mô hình hữu cơ kết hợp du lịch sinh thái cộng đồng tại khu hồ Tà Pạ, huyện Tri Tôn. Các bên đã có nhưng định hướng cũng như bước đầu thúc đẩy dự án phát triển, liên kết doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ lúa theo tiêu chuẩn hữu cơ, hỗ trợ nông dân thiểu số vùng dự án canh tác nông sản hữu cơ với giá thu mua ưu đãi và hướng dân dịch vụ du lịch sinh tái cộng đồng cải thiện sinh kế lâu dài cho bà con.
 
IMG 20220114 102505
 
Hình 3. Gặp mặt đối tác Công ty TNHH MTV Trịnh Văn Phú trao tặng Viện AOI sản phẩm gạo ST 25 thương hiệu “Bảy Núi” tăng cường nhiều Acid amin và Collagen.
 
Hoạt động tại Uỷ ban Nhân dân xã Lương An Trà
 
       Đây là hoạt đồng thuộc một phần trong Dự án 4H, buổi gặp gỡ chiều ngày 12/1/2022 với Hội Nông dân tại ủy ban xã Lương An Trà để bàn mở rộng mô hình lúa hữu cơ vùng chuyên canh thuộc ĐT 4 H.
       Về phía Uỷ ban nhân dân xã Lương An Trà đã mời 9 hộ nông dân và đại diện 03 HTX đến tham dự . Các bên đã trao đổi về kế hoạch, hướng đi xây dựng mô hình hữu cơ tại huyện Tri Tôn. Cuộc họp đã nhận được phản hồi khá tốt từ các hộ nông dân và các HTX. HTX Lương An Trà dự kiến tham gia cánh đồng hơn 50ha. Hiện HTX đang sản xuất giống lúa ST24 đang canh tác tại xã Lương An Trà quyết tâm đồng hành cũng Dự án, xây dựng mô hình sản xuất lúa theo tiêu chuẩn hữu cơ. Các hộ nông dân khác cam kết đồng hành cùng Dự án trong thời gian tới nhằm đáp ứng mục tiêu nâng cao chất lượng giá trị nông sản có chứng nhận theo nhu cầu thị trường trong thời gian tới, tăng thu nhập cải thiện đời sống bà con nông dân.
 
IMG 20220116 095730
Hình 3,4. Đại diện Hội Nông dân xã Lương An Trà và Viện trưởng Viện AOI phát biểu
 
      Viện AOI chân thành cảm ơn sự tài trợ và hợp tác của Sở Khoa học và Công Nghệ tỉnh An Giang; các Doanh nghiệp tham gia liên kết, Trung tâm KTDV Nông nghiệp tỉnh, Dự án G2 thuộc Oxfam Việt Nam; Chính quyền các huyện, xã tham gia và đặc biệt các HTX và Nông dân đã nỗ lực hết mình để xúc tiến thực hiện các mô hình Lúa hữu cơ có chứng nhận quóc tế, trong khuôn khổ đề tài 4H tại An Giang. 
Nhóm Admin Viện AOI
 
 

TS. Nguyễn Công Thành, Viện NC&PT Nông nghiệp Hữu cơ Á Châu (AOI)

Bèo hoa dâu-Azolla là một loại phân bón sinh học cho cây trồng. Nó bổ sung đầy đủ chất hữu cơ và Azolla như là loài dương xỉ dưới nước có khả năng cố định đạm (nitơ) rất triển vọng trong sản xuất, nhất là hữu cơ.

Sự phát triển Azolla biểu thị độ phì nhiêu của đất và sức khoẻ của đất. Nó giúp kiểm soát sự phát triển của cỏ dại trong ruộng lúa, nâng cao hiệu quả của việc bón phân đạm (N) hóa học và giảm ô nhiễm môi trường. Azolla có thể dễ dàng trồng ở những vùng đất thấp, với sản lượng sinh khối hàng năm hơn 300 tấn / ha. Nó có thể được sử dụng thành công cả trong mùa mưa và mùa khô. Nó thích hợp cho các vùng đất thấp, thuận lợi tưới tiêu và có lượng mưa (độ sâu mực nước 0–25 cm). Khoảng 5 đến 10 cm nước đọng, pH thích hợp từ hơi chua đến đất trung tính (pH 5,5–7) với lượng lân(P) sẵn có cao, nhiệt độ vừa phải (25–30 ° C) và cường độ ánh sáng cao hợp lý  (chiếu sáng trực tiếp khoảng 60%) là thuận lợi cho Bèo hoa dâu phát triển. Nó cũng có thể được trồng trên đất ít lân bằng cách bón phân lân và phân hữu cơ.

   Untitled1

Kỹ thuật sản xuất Bèo hoa dâu

Bèo hoa dâu Azolla hiện được sản xuất thông qua nhân giống sinh dưỡng. Các phương pháp sản xuất đơn giản, hiệu quả và có thể dễ dàng được những người nông dân chấp nhận. Chúng tôi gọi là công nghệ nhân sinh khối theo Ân Độ.

Chuẩn bị đất tốt thành các ô từ 10 đến 25 m2 như các hồ nhỏ (hoặc bạt nilon). Duy trì nước đọng từ 5 đến 10 cm trong suốt trời gian trồng. Thả lượng Azolla tươi từ 100 đến 200 g / m2. Bón phân lân đơn 2,5 g đến 3,75 g / m2 mỗi tuần. Sau khi hình thành thảm thực vật Béo hoa dâu phủ đầy khung thì thu hoạch hai phần ba lượng Bèo Azolla. Để lại một phần ba còn lại để nhân tiếp.

(Có thể sử dụng phân bò, phân hữu cơ vi sinh với lượng rất nhỏ bón cho Bèo dâu

Đáy hồ trồng có một lượng bùn đất (Phù sa) dày 15-25 cm.

Thay 1/3 lượng nước sau một thời gian trồng (vàì tháng tùy điều kiện và tùy phát triển của bèo))

Một vườn ươm 1.000 m2, sản xuất 1.000 đến 1.500 kg Azolla tươi mỗi lần/tuần, đủ để bón trên ruộng từ 1 đến 1,5 ha. Các ao mương sâu hoặc cạn cũng có thể được sử dụng để nhân giống Azolla.

Viện AOI đã chuyển giao kỹ thuật nhân Bèo hoa dâu tại xã Tam Phước, huyện Long Điền (Bà Rịa-Vũng Tàu) có kết quả rất tốt:

Bèo hoa dâu hiện đã được nhóm chuyên gia hợp tác với Hội ND và Hội CCB xã Tam Phước trồng thử nghiệm và kết quả bước đầu rất tốt đẹp. Với công nghệ mới theo kiểu Ấn Độ tận dụng đất đai phi nông nghiệp, diện tích nhỏ lẻ, hoặc bờ bao, mương rãnh, lề đường... đều có thể sản xuất được Bèo hoa dâu đem lại giá trị cao. Theo kết quả thực tế đã làm ở Tam Phước, tính toán quy ra một công đất (1000 m2), trong vòng 7 ngày (thực tế 3-4 ngày), sản xuất được ít nhất 500 kg Bèo hoa dâu, với giá thấp nhất 1000 đ/kg (khi chưa phổ biến, còn thực tế là 4000 đ/kg), thì một tháng 1 công đất thu nhập ít nhất 8 triệu đồng với chi phí sản xuất xây bể bạt nilon rất thấp và đất phi nông nghiệp tận dụng thì hiệu quả thật sự cao so với sản xuất cây trồng thông thường tại địa phương.

 Untitled2

Tác dụng của Bèo hoa dâu

- Bèo Azolla chứa 16% protein tính theo trọng lượng khô và có thể được sử dụng làm thức ăn bổ sung cho động vật như cá, gà, vịt, gia cầm và gia súc…

- Azolla là chất hấp thụ kali hiệu quả và có lợi cho lúa, cây trồng trên đất thiếu K.

- Azolla giúp khử độc kim loại nặng và nhiều loại chất ô nhiễm khác.

- Phân ủ Azolla có thể được sử dụng để trồng hoa quả và rau.

- Azolla cũng có thể được sử dụng để sản xuất khí sinh học.

- v.v…

Nhóm Admin Viện AOI

Thông tin Nông nghiệp Bền vững và Hữu cơ:

“An Giang: Trồng nấm rơm kiểu mới lạ, nấm mọc chi chít, nông dân bất ngờ thu 2 triệu/ngày”

Đây là một hoạt động thuộc Đề tài: “Nghiên cứu xây dựng cánh đồng lớn theo phương châm 4 H” hợp tác giữa Sở KH&CN tỉnh An Giang với Viện NC&PT Nông nghiệp Hữu cơ Á Châu (AOI)

Xin xem toàn bài báo được đăng trên: https://danviet.vn/an-giang-trong-nam-rom-kieu-moi-la-nam-moc-chi-chit-nong-dan-bat-ngo-thu-2-trieu-ngay-20211101184059002.htm

Anh Nguyễn Thanh Hà, tại xã Tân Phú, huyện Châu Thành (tỉnh An Giang)

Năm 2020, anh Hà đầu tư 500m2 trồng nấm rơm trong nhà kính.

Mô hình trồng rơm trong nhà kính

Anh học hỏi kinh nghiệm từ nhiều tỉnh Kiên Giang, thành phố Châu Đốc, qua sách báo, phương tiện thông tin đại chúng…sự hỗ trợ nhiệt tình của ngành chuyên môn các cấp.

Để nấm rơm có năng suất và chất lượng cao, cần nắm vững kỹ thuật, đặc điểm sinh trưởng, phát triển của nấm rơm thì người trồng có thể điều chỉnh các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm…cho thích hợp.Hiện tại, anh có 8 nhà nấm, trồng nấm rơm trong nhà kính. Mỗi nhà có diện tích 24m2, bố trí các kệ để chất rơm ủ với độ dày hợp lý để nấm rơm phát triển, chủ động, điều chỉnh, quản lý tốt nhiệt độ, độ ẩm và các sinh vật hại, đặc biệt không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

Hợp tác giữa Sở KH&CN tỉnh An Giang với Viện NC&PT Nông nghiệp Hữu cơ Á Châu (AOI)

Thời gian chất và ủ nấm là 30 ngày, thu hoạch thành phẩm kéo dài từ 10 ngày đến 20 ngày. Chi phí đầu tư 500m2 là 400.000 triệu đồng, trung bình mỗi ngày anh thu từ 30 – 50kg nấm rơm sạch, giá bán 50.000 – 60.000 đồng/kg, thu về 2.000.000 đồng/ngày. Để có được kết quả như hiện tại,anh cũng đã thất bại 2 lầm.

Sản phẩm nấm rơm được trồng từ nhà kinh

Không chỉ thu nhập cao từ mô hình trồng nấm rơm trong nhà kính, mà vợ chồng anh Hà còn là người nông dân gắn bó với ruộng đồng. Với 5 héc-ta đất trồng lúa 3 vụ mang về lợi nhuận hàng trăm triệu đồng mỗi năm. “Ở đây mình làm ruộng thấy nguồn rơm dồi dào, bỏ thì lãng phí. Vì vậy tận dụng nguồn rơm sẵn có để làm nấm”

Mô hình trồng nấm rơm kiểu mới lạ này cho thấy hiệu quả kinh tế cao, tạo thêm nguồn thu nhập ổn định cho gia đình, góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.

 

 

Thay đổi phương thức sản xuất từ truyền thống sang hiện đại nhằm thay đổi phương thức quản lý nông nghiệp, mở đường cho những hoạt động sản xuất chính xác thông qua ứng dụng công nghệ 4.0. Ảnh: Thành Hoa

(TBKTSG) – Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản và để xuất khẩu có thể cạnh tranh thì phải hy sinh lợi ích của người nông dân. Đó là nghịch lý của một ngành được ví như trụ đỡ của nền kinh tế.

Thay đổi phương thức sản xuất từ truyền thống sang hiện đại nhằm thay đổi phương thức quản lý nông nghiệp, mở đường cho những hoạt động sản xuất chính xác thông qua ứng dụng công nghệ 4.0. Ảnh: Thành Hoa


Để trở thành một nền nông nghiệp sản xuất lớn, cần tạo ra động lực mới. Trong quan điểm phổ biến hiện nay, tái cấu trúc kinh tế nông nghiệp phải đưa ra được một quyết sách mới cho phát triển nông nghiệp, bao gồm cả chính sách đất đai phù hợp, chính sách tạo lập quan hệ sản xuất mới.

Điều cần quan tâm đầu tiên là chính sách nào sẽ tạo nên động lực cho phát triển? Một chính sách tạo được động lực phải dựa trên nguyên tắc chia sẻ lợi ích từ phát triển, bao gồm lợi ích của quốc gia, lợi ích của cộng đồng, địa phương và lợi ích của các bên tham gia vào quá trình sản xuất. Từ động lực đó, có thể đưa ra các cơ chế cụ thể giúp tăng năng suất, tăng sản lượng và chất lượng nông sản với giá trị gia tăng cao hơn.

Đã đến lúc không thể chỉ chú trọng vào các chỉ tiêu sản lượng xuất khẩu, mà phải chuyển sang nền nông nghiệp chất lượng cao, tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao một cách có hiệu quả và bền vững.

Nông nghiệp công nghệ cao chắc chắn không phải một mô hình kinh tế, vì thế phải gắn liền với chuỗi giá trị sản phẩm và của ngành. Do đó, tư duy và định hình lại các mô hình sản xuất nông nghiệp hiện nay là yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Trong đó, Nhà nước nên: 1. Khuyến khích và hỗ trợ các dự án nông nghiệp hữu cơ theo mô hình phát triển bền vững; 2. Tập trung đầu tư cho khoa học-công nghệ và tăng cường ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp; 3. Chú trọng xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm nông sản chủ lực có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu; 4. Coi trọng vai trò tạo động lực và dẫn dắt của các tập đoàn kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp; và 5. Khởi tạo nguồn quỹ mới chuyên đầu tư phát triển ngành sản xuất công nghiệp nông nghiệp.

Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp hữu cơ, các hoạt động sản xuất nông nghiệp phải dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học (tạo và lai giống, bảo quản nông sản, thực phẩm…), công nghệ nano (phòng trừ bệnh hại, phân bón cho cây trồng…) và công nghệ lượng tử (xử lý nước…). Với nông nghiệp công nghệ cao, đó là tập trung thay đổi phương thức sản xuất từ truyền thống sang hiện đại nhằm thay đổi phương thức quản lý nông nghiệp, mở đường cho những hoạt động sản xuất chính xác, chặt chẽ mà con người không cần có mặt trực tiếp thông qua ứng dụng công nghệ 4.0. Để nông nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận những thành tựu của tương lai này, Nhà nước nên có cơ chế đặc biệt nhằm chào đón các nhà khoa học – kiều bào trên khắp thế giới có nguyện vọng trở về phục vụ đất nước.

Chuỗi giá trị là tư duy chiến lược chứ không phải là mô hình kinh doanh. Dù có thể đa dạng về hình thái sản xuất song các mô hình nông nghiệp hữu cơ phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản. Một là, phải có được lợi thế về quy mô, tức sản xuất nông nghiệp ở quy mô công nghiệp, nhờ đó tạo khả năng tốt hơn trong hấp thụ vốn và công nghệ. Hai là, phải gắn vào chuỗi giá trị, bao gồm chuỗi giá trị sản phẩm (hạt gạo, cám gạo, dầu gạo, silica…) và chuỗi giá trị ngành (R&D, tạo giống, trồng trọt, chế biến, logistics và phân phối). Ba là, sản phẩm làm ra phải có cơ hội tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ chuỗi giá trị sản phẩm trong ngành và ngành có liên quan để chọn ra một hoặc nhóm sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có lợi thế cạnh tranh cao về chất lượng và giá bán nhằm tập trung nguồn lực hỗ trợ cho các doanh nghiệp có sản phẩm thâm nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Để sản xuất nông nghiệp bền vững thì sản xuất theo chuỗi giá trị có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhất là khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế giới, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là xuất khẩu. Từng nông hộ, hợp tác xã, doanh nghiệp đơn lẻ không thể tự thực hiện được chuỗi sản xuất và tiêu thụ ở thị trường quốc tế. Liên kết giữa các nông hộ, hợp tác xã và doanh nghiệp mới đủ năng lực nâng cao giá trị cho nông sản Việt và tiếp đó là thâm nhập thị trường quốc tế.

Ai có khả năng tư duy, hoạch định và thực hành tốt chiến lược về chuỗi giá trị nông nghiệp, và đâu là điểm đến an toàn cho những phát kiến đột phá về công nghệ ứng dụng cho nông nghiệp hữu cơ nếu không phải là các tập đoàn kinh tế tư nhân. Có một thực tế buồn là tập đoàn kinh tế tư nhân có xuất thân và đi lên từ nông nghiệp ở Việt Nam chỉ đếm trên đầu ngón tay, và các tập đoàn có năng lực R&D về khoa học-công nghệ ứng dụng cho nông nghiệp công nghệ cao thì càng hiếm hoi hơn.

Nói đến tập đoàn kinh tế là nói đến mô hình tổ chức nhóm công ty và quản trị công ty trong tập đoàn, trong khi đây lại là điểm yếu lớn nhất của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhiều công ty con, kinh doanh nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm không đồng nghĩa là một tập đoàn kinh tế, và khi năng lực quản trị trong tập đoàn cũng kém thì càng không thể nói tới phát triển nông nghiệp bền vững được.

Trong vai trò như một bác sĩ hoặc một kiến trúc sư, các chuyên gia tư vấn chiến lược và quản trị công ty sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đồng hành cùng các doanh nghiệp, tập đoàn có tham vọng phát triển lớn trong lĩnh vực nông nghiệp ngay từ ban đầu. Họ cần được trân trọng và động viên, khích lệ vì sứ mệnh này.

Đặc thù của các dự án nông nghiệp công nghệ cao là quy mô lớn nên cần nhiều vốn, thời gian thực hiện kéo dài, vòng quay vốn chậm, rủi ro cao… Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam đều hạn chế về năng lực lập luận chứng kinh tế – kỹ thuật; các hồ sơ dự án cắt ghép, dự toán đầu tư, kế hoạch kinh doanh và tài chính đều xây dựng theo mô hình tài chính cũ, lạc hậu so chuẩn mực quốc tế.

Cái mà nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao thực sự cần chính là dòng vốn “tín dụng dành cho đầu tư” thay vì dòng vốn “tín dụng thương mại”. Do vậy, vấn đề đặt ra không phải là mở rộng hay nới lỏng các tiêu chuẩn để doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng, mà Nhà nước nên khuyến khích và tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời của các quỹ tài chính trong nước. Các quỹ này vừa đóng vai trò như một nhà đầu tư tài chính, vừa có chức năng cung cấp các khoản tín dụng dài hạn tương tự như các ngân hàng thương mại.

Các quỹ tài chính không nên rập khuôn các tiêu chuẩn đánh giá rủi ro tín dụng qua tài sản thế chấp như các ngân hàng thương mại, mà nên tập trung vào việc xây dựng bộ tiêu chí (định tính, định lượng) có tính khoa học nhằm đánh giá và xếp loại các dự án nông nghiệp thông qua báo cáo khả thi dự án đầu tư, và cân bằng rủi ro thông qua tài sản thế chấp là tài sản hiện có đồng thời với tài sản hình thành trong tương lai của dự án đầu tư của doanh nghiệp.

(*) Chuyên gia tư vấn của Strategic Foresight

Nguồn: https://thesaigontimes.vn/nong-nghiep-viet-nam-de-la-nguoi-dan-dau/

 

Liên hệ

Địa chỉ: 54/17 Bùi Quang Là, P.12, Quận Gò Vấp, TP. HCM.

Điện thoại: (+84) 989 596 877

Email: vienhuucoachau@gmail.com

 

MAP

Facebook